Việc Fed nâng dự báo về tăng trưởng kinh tế vào cuối năm nay cho thấy sự tự tin của cơ quan này đối với khả năng soft-landing bất chấp tiến trình tăng lãi suất ồ ạt và hawkish trong suốt một năm qua. Thậm chí, có khá nhiều “nhân vật” cho rằng Fed có thể đạt được mục tiêu soft-landing này…, điển hình là economist của Goldman Sachs:
Tuy nhiên, Viet Hustler giữ nguyên nhận định từ bài viết kinh tế vĩ mô tuần trước và cho rằng còn quá sớm để Fed ăn mừng khả năng soft-landing. Đặc biệt khi ảnh hưởng của tình hình credit crunch lên doanh nghiệp vẫn còn là một ẩn số. Bởi lẽ, những ảnh hưởng của chính sách lãi suất cao cần 1 năm mới có tác động lên banking crisis ở thời điểm hiện tại, thì tình trạng credit crunch hiện tại cũng sẽ cần một khoảng thời gian tương tự để bắt đầu ảnh hưởng lên doanh nghiệp, thị trường lao động, tiết kiệm và tiêu dùng.
Trong bài viết kinh tế vĩ mô tuần này, Viet Hustler sẽ bàn luận khả năng soft-landing từ cái nhìn của Fed và từ cái nhìn trung lập của những số liệu kinh tế mà có thể đã bị “bỏ sót” bởi Fed.
Nguyên nhân nào khiến Fed tự tin về khả năng soft-landing?
Chi tiêu tiêu dùng mạnh mẽ của người dân Mỹ và thị trường lao động đầy khả quan có thể là 2 nguyên nhân chính khiến Fed hi vọng về khả năng soft-landing!
Gần 70% GDP của Mỹ hiện tại đến từ chi tiêu tiêu dùng:
Recall: Tăng trưởng GDP quý I/2023 vẫn được chèo lái chủ yếu dựa trên sức mạnh tiêu dùng. (Cột màu xanh)
Doanh số bán lẻ trong năm 2022 và đầu năm 2023 vẫn tăng trưởng khá ấn tượng:
Doanh số bán lẻ danh nghĩa của Hoa Kỳ đã tăng từ: USD 450 tỷ trước đại dịch => lên USD 599 tỷ hiện nay.
Con số này cao hơn +15% so với dự đoán dựa trên xu hướng trước dịch Covid và +30% so với con số trước đại dịch.
Đối với thị trường lao động, nhu cầu lao động cao từ phía doanh nghiệp khiến thị trường lao động vẫn khá kiên cường trong suốt 1 năm qua
Tỷ lệ thất nghiệp thấp kỷ lục vào tháng 4 năm nay (3.4%), dù đã tăng nhẹ vào tháng 5 lên 3.7%.
Số lượng bảng lương vẫn tăng cao (màu xanh lá) trong khi hoạt động tuyển dụng trong các doanh nghiệp sản xuất vẫn diễn ra sôi nổi - vẫn tăng từ cuối năm ngoái (đường biểu đồ màu đen).
Khi mà người dân vẫn còn việc làm, doanh nghiệp vẫn hoạt động và tuyển dụng, và quan trọng nhất là sức mạnh tiêu dùng của người dân vẫn còn… thì Fed vẫn tự tin rằng GDP, dù có yếu đi do nhu cầu chậm lại (mục đích chính trong chính sách lãi suất cao của Fed), thì vẫn còn tăng trưởng (tăng trưởng GDP > 0%).
Cùng với niềm tin vào thị trường lao động và tiêu dùng, việc CPI cốt lõi còn cao có thể tiếp tục thúc đẩy Fed nâng lãi suất từ nay cho đến cuối năm.
Lạm phát của Mỹ giảm trong tháng 5 ở mức +4% y/y - tốc độ chậm nhất kể từ tháng 3/2021. Tuy nhiên, CPI cốt lõi vẫn còn đang khá cao +5.3%.
Đặc biệt CPI cốt lõi mục hàng hóa lại có xu hướng tăng trở lại tăng trở lại (đường biểu đồ màu xanh lá) trong khi CPI cốt lõi khối dịch vụ đã chậm lại.
Dot-plot của các thành viên sau FOMC cũng ám chỉ rằng có thể sẽ có thêm 2 lần tăng lãi suất từ Fed cho đến cuối năm nay để kiềm chế lạm phát.
Bài viết liên quan: Hướng đi của Fed sau FOMC tháng 6.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, Viet Hustler cho rằng sự tự tin về khả năng soft-landing của Fed còn quá sớm!
Thậm chí, sự tự tin về soft-landing này có thể sẽ phải đánh đổi bằng sự sụp đổ của hệ thống tài chính do sức ép từ tiến trình nâng lãi suất quá vội vàng trước đó.
Vì sao Fed chưa chắc đã đạt được soft-landing?
Tất nhiên, Fed đúng khi cho rằng sức mạnh tiêu dùng và thị trường lao động nói chung sẽ là những yếu tố chính quyết định liệu suy thoái có xảy ra hay không, hoặc mức độ nông hay sâu của suy thoái (nếu có).
Tuy nhiên, những chỉ số về tiêu dùng và lao động mà Fed đang dựa vào lại chỉ phản ứng xấu đi rõ rệt một khi suy thoái xảy ra. Trong khi một vài chỉ số không trực tiếp tác động lên 2 yếu tố tiêu dùng và lao động, lại chính là những chỉ số leading indicators báo hiệu sự rạn nứt của 2 yếu tố này.
Về tiêu dùng
Việc tiêu dùng tăng lên nhanh chóng trong giai đoạn vừa qua có thể là ảnh hưởng từ 3 gói trợ cấp kinh tế trong suốt 2 năm Covid (2020-2021). Tuy nhiên, ảnh hưởng từ số tiền cứu trợ này đang dần biến mất.
Số tiền tiết kiệm đạt đỉnh sau gói kích thích kinh tế đầu tiên (tháng 4/2020), rồi lại liên tục suy giảm nhanh chóng để duy trì chi tiêu trong suốt thời kỳ lạm phát.
Hiện tại, tổng số tiền tiết kiệm của người dân Mỹ quay lại dưới mức < USD 1000 tỷ, báo hiệu việc chi tiêu sẽ chậm lại trong nửa cuối năm 2023.
Trong khi đó, lượng tiền tiết kiệm của người dân Mỹ đã thấp hơn nhiều so với mức dự đoán dựa trên xu hướng trước đại dịch:
thâm hụt ~ - USD 1270 tỷ so với dự đoán dựa trên xu hướng trước dịch Covid.
Doanh số bán lẻ tăng lên trong thời gian qua bị đánh đổi bằng tỷ lệ tiết kiệm đã chạm đáy vào quý III/2022.
Tuy nhiên tăng trưởng của doanh số bán lẻ đã có dấu hiệu chậm lại. Thậm chí giảm xuống mức âm (-3.26%) sau khi điều chỉnh theo lạm phát.
Giá bán nhà đã sụt giảm ở mức kỷ lục chưa từng có: -8.9% q/q trong quý I/2023, mức giảm lớn nhất kể từ trước đến nay.
… cho thấy nhu cầu mua nhà của người dân đã sụt giảm, do khả năng chi trả của người dân đối với các khoản chi phí lớn đã trở lên hạn chế.
Ngoài ra, phần lớn người dân Mỹ sẽ phải tiếp tục quay lại trả nợ sinh viên vào cuối năm nay. Điều này đồng nghĩa với việc chi tiêu sẽ bị thu hẹp đi đáng kể.
Tổng dư nợ sinh viên đã lên đến ~USD 1800 tỷ, chiếm khoảng 10% tổng nợ quốc gia của Mỹ.
Thị trường lao động
Viet Hustler đã nhấn mạnh khá nhiều rằng những thống kê lao động là những chỉ số khá lag so với sức khỏe của nền kinh tế. Thất nghiệp chỉ thực sự tăng cuối chu kỳ suy thoái khi hàng loạt doanh nghiệp vỡ nợ và sa thải nhân viên.
Để biết được tình hình thị trường lao động sắp tới thì phải dựa trên sức khỏe các doanh nghiệp (là nhà tuyển dụng) hiện tại.
Chỉ số hoạt động kinh tế quốc gia (National Activity Index) từ Chicago Fed đã giảm trong tháng 5 xuống mức -0.15 (từ mức khả quan +0.14 trong tháng 4/2023).
Trong đó, các chỉ số đo lường hoạt động sản xuất và tuyển dụng việc làm đều ở mức âm cho thấy sự chậm lại rõ rệt của hoạt động của doanh nghiệp
… và sẽ ảnh hưởng lên thị trường lao động sắp tới.
Tuần trước, các khoản cho vay thương mại của ngân hàng đã giảm -USD 40.6 tỷ, mức giảm lớn thứ 2 kể từ Khủng hoảng kinh tế 2008.
Credit crunch cũng sẽ khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất do thiếu hụt nguồn vốn tài trợ.
Hiện tại, rạn nứt đầu tiên trên thị trường lao động là việc tăng trưởng lương và số giờ lao động đã giảm, cho thấy nhu cầu lao động từ doanh nghiệp đã hạ nhiệt.
Những ảnh hưởng địa chính trị nên nền kinh tế
Đầu năm nay, Bank of America, Black Rock và Citibank… đều nhấn mạnh rủi ro địa chính trị và ảnh hưởng của chúng lên thị trường.
Mặc dù không phải là nguyên nhân chính diễn ra lạm phát, chiến tranh giữa Ukraine và Nga đã góp phần đẩy tình hình lạm phát lên cao trào vào năm ngoái, đặc biệt đối với Châu Âu.
Cuối tuần này, khả năng đảo chính tại Nga đã dấy lên hy vọng về việc chiến tranh sẽ kết thúc. Tuy nhiên, sự kiện này lại kết thúc khá nhanh chóng. (update trên Facebook Page của Viet Hustler.)
Nếu chiến tranh Nga-Ukraine có thể kết thúc, chủ yếu tình hình lạm phát tại Châu Âu sẽ được cải thiện do lạm phát tại Châu Âu bị ảnh hưởng nặng nề do giá năng lượng và thực phẩm leo thang sau chiến tranh. Tại Mỹ, lạm phát sẽ không bị ảnh hưởng trực tiếp.
Tuy nhiên, Mỹ sẽ hưởng lợi từ giá nhập khẩu hàng Châu Âu giảm, điều này cũng góp phần làm dịu đi tình hình lạm phát tại Mỹ.
Trước Covid, Mỹ vẫn luôn nhập siêu hàng hóa trong cán cân thương mại với Châu Âu.
Tuy nhiên, khả năng Nga tiếp tục cung cấp năng lượng cho Châu Âu sẽ khiến Mỹ mất đi một bạn hàng quan trọng:
Khí hóa lỏng LNG nhập từ Mỹ là một trong những nguồn năng lượng thay thế đối với Châu Âu để tránh phụ thuộc vào Nga.
Nếu chiến tranh bờ bên kia Đại Tây Dương kết thúc, xuất khẩu của Mỹ sang Châu Âu giảm cũng sẽ ảnh hưởng đến “hi vọng” soft-landing của Fed.
Bên cạnh đó, mối quan hệ Mỹ-Trung vẫn đang là rào cản kinh tế đối với cả 2 quốc gia.
Bài viết liên quan: Kinh tế Trung Quốc hậu mở cửa và ảnh hưởng của rủi ro địa chính trị.
Việc hạn chế các Venture Capital của Mỹ đầu tư sang thị trường tỷ dân với hàng loạt start-up tiềm năng tại Trung Quốc sẽ khiến Mỹ mất đi một nguồn thu ngoại tệ.
Dù nguồn thu này có thể không quan trọng bằng an ninh quốc gia, nhưng sự thâm hụt của những nguồn thu này sẽ góp phần giảm thiểu tổng thu nhập quốc gia (GNI) và tổng sản lượng quốc gia (GNP) của Mỹ.
KẾT LUẬN
Fed có thể vẫn đang dựa vào sức mạnh tiêu dùng của người dân Mỹ (chiếm 70% GDP) và sự kiên cường của thị trường lao động để dự đoán về khả năng soft-landing vào cuối năm nay. Điều này là hoàn toàn có lý. Tuy nhiên, những số liệu mà Fed đang tập trung theo dõi lại là những số liệu có phần lag hơn so với những biến đổi trên thị trường.
Bởi lẽ, chỉ khi suy thoái diễn ra mới khiến cả hai biến số về tiêu dùng và lao động này mới thay đổi một lúc: thất nghiệp tăng cao do doanh nghiệp vỡ nợ và sa thải ồ ạt + người dân thắt lưng buộc bụng trong tiêu dùng do thất nghiệp tăng.
Tất nhiên, khi cả tiêu dùng sụt giảm rõ rệt và thất nghiệp tăng nhanh chóng đều đồng thời diễn ra, thì Fed cũng đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát, những sẽ không có soft-landing.
Sự mạnh mẽ trong tiêu dùng của người dân Mỹ suốt 1 năm qua đa phần dựa trên các gói kích thích kinh tế trong thời kỳ dịch Covid và việc đánh đổi bằng tỷ lệ tiết kiệm ngày càng bị bào mòn. Sắp tới, người dân sẽ tiếp tục trả nợ sinh viên với một tài khoản tiết kiệm cạn kiệt. Liệu khi đó, tiêu dùng có còn gồng gánh tăng trưởng GDP của Mỹ được nữa hay không?
Thị trường lao động không nên được bắt mạch bằng một chỉ số ex-post như tỷ lệ thất nghiệp việc làm ở hiện tại, mà nên được xem xét dựa trên các số liệu ex-ant dùng để dự đoán sức khỏe của doanh nghiệp. Trong khi hiện tại, ảnh hưởng của Credit Crunch lên các doanh nghiệp vẫn còn chưa ngã ngũ.
Cuối cùng, dù cuộc tấn công ngắn ngủi của công ty đánh thuê Wagner vào Nga chẳng thể dừng được cuộc chiến Nga-Ukraine, thì sớm hay muộn, cuộc chiến này sẽ kết thúc. Lúc đó, xuất khẩu năng lượng của Mỹ sẽ bị ảnh hưởng, càng hạn chế tăng trưởng kinh tế Mỹ. Đặc biệt, quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc cũng hạn chế nguồn thu của Mỹ từ thị trường tỷ dân. Những rủi ro địa chính trị này đều có thể ảnh hưởng không nhỏ lên hi vọng soft-landing của Fed trong năm giai đoạn 2023-2024 tới đây.


















Bình luận (0)
Chưa có bình luận nào
Hãy là người đầu tiên bình luận
Đăng nhập để bình luận