Trong kỳ cuối của series Góc nhìn kinh tế toàn cầu, Viet Hustler đã đưa ra nhận định: Nợ công sẽ là rủi ro kinh tế lớn nhất trong 10 năm tới… và câu chuyện mới chỉ bắt đầu.
Cho đến năm 2023, tổng dư nợ của Mỹ lên tới >USD 33,118 tỷ, tương đương mức nợ USD 255,353 trên vai mỗi người dân nộp thuế tại Mỹ. Nợ quốc gia không chỉ là vấn đề của chính phủ, mà chính là gánh nặng lên mỗi người dân!
Chỉ còn vài giờ nữa (tính từ thời điểm Viet Hustler chuẩn bị bài viết này) là chính phủ Mỹ sẽ phải shutdown hầu hết các hoạt động công nếu hai Đảng cầm quyền không thể thống nhất được kế hoạch chi tiêu công.
Nhân đây, Viet Hustler sẽ luận bàn về vấn đề nợ công tại Mỹ, nguyên nhân nợ công tại Mỹ bùng nổ trong hơn 1 năm trở lại đây, và những rủi ro đối với nền kinh tế Mỹ nếu vấn đề nợ công trở lên dai dẳng trong thời gian tới.
Podcast Chủ Nhật: Dự báo xu hướng Kinh Tế Vĩ Mô trong 10 năm tới
Sau chuỗi bài viết Góc nhìn kinh tế toàn cầu (4 kỳ) đăng tải trên Viet Hustler. Steve sẽ host một buổi podcast với Linh Hà, writer quen thuộc của Viet Hustler về các chủ đề nóng hổi xoay quanh xu hướng thay đổi của những điều kiện kinh tế toàn cầu có nêu ra trong những bài viết Kinh Tế Vĩ Mô tháng vừa qua trên Viet Hustler. Buổi Podcast sẽ được làm trực tiếp trên discord lúc 12h trưa Central Time ngày Chủ Nhật 10/01 và bao gồm những nội dung sau:
Federal Reserve và hướng đi sau tháng 9?
Bank of Japan và những quyết định gây rung chuyển kinh tế thế giới
Kinh tế Trung Quốc - đi đâu về đâu?
Khủng hoảng nợ công - mức báo động đỏ nằm ở đâu?
5 dự báo về thay đổi vĩ mô trong 10 năm tới
Những điều cần biết về tình hình nợ công hiện tại của Mỹ
Lợi tức trái phiếu chính phủ Mỹ trong 2 tuần vừa qua tăng lên chóng mặt.
Lợi tức T-Bond 10Y của Mỹ đã tăng mức đỉnh lên 4.8% trong tuần qua.
Kéo theo đó là chỉ số giá đồng dollar Mỹ (DXY) tăng vọt lên trên ngưỡng 106.
Lợi tức trái phiếu trong tuần đã được cập nhật trong báo cáo thị trường của Viet Hustler: ngày 09/28, 09/27, 09/26.
(Do vậy, bài viết KTVM cuối tuần sẽ không đề cập thêm về từng con số.)
Theo Goldman Sachs, lợi tức trái phiếu hiện tại tăng cao phần lớn chủ yếu việc thị trường phản ứng với những chính sách về tài khóa và tiền tệ của chính phủ:
Chính sách tiền tệ (chủ yếu là hiệu ứng của inflation): chu kỳ tăng lãi suất hawkish nhất trong lịch sử.
Chính sách tài khóa: Thâm hụt chi tiêu chính phủ (nguồn chi - nguồn thu) đã lên tới 6% GDP.
Trong 2 năm vừa qua 2021-2023: trong khi chứng khoán vẫn tăng trưởng 33% thì các quỹ ETF trái phiếu kho bạc dài hạn lại lỗ ~-50%.
Số tiền chính phủ dùng để trả lãi nợ công đã vượt quá số tiền chi cho quốc phòng…
(không phải vì chi tiêu cho quốc phòng giảm như cuối thập niên 1990s mà là do chi phí trả lãi vay nợ bùng nổ trong hơn 1năm trở lại đây)
Nguy cơ chính phủ sẽ phải shutdown (đóng cửa phần lớn các hoạt động trừ những hoạt động công cơ bản) trong vài giờ nữa nếu chính phủ không thể đàm phán được kế hoạch chi tiêu công.
Update tình hình đàm phán giữa 2 Đảng tại đây.
Điều quan trọng mà Viet Hustler muốn nhấn mạnh là đây không phải là giai đoạn tăng lợi tức trái phiếu ngắn hạn mà có thể là bắt đầu của việc điều chỉnh chi phí vay vốn ở mức cao tương đương trong dài hạn.
Có vẻ như Mỹ thực sự sẽ đạt được tình trạng lãi suất “higher for longer”, nhưng không chỉ là Fed Fund Rate, mà chính là lãi suất vay vốn của mình!
Vì sao có sự bùng nổ nợ công tại Mỹ trong 2 năm gần đây (và được dự đoán là tiếp tục bùng nổ trong thời gian tới)?
Trong kinh tế vĩ mô, có một quy tắc là
dù xuất phát điểm tỷ lệ nợ/GDP (debt-to-GDP) có thể cao, nhưng quốc gia vẫn có thể tiếp tục vay nợ (để tài trợ cho hoạt động kinh tế) nếu tốc độ tăng trưởng GDP (g) cao hơn so với chi phí vay vốn (lãi suất vay trung bình - r),
tức là:
Nếu g > r : tiềm lực tăng trưởng kinh tế của quốc gia sẽ đảm bảo khả năng trả nợ và dần dần tỷ lệ nợ công/GDP sẽ giảm (đường màu cam).
Nhưng nếu g < r : nguồn thu của nền kinh tế sẽ không có khả năng bù đắp cho chi phí vay nợ, từ đó, tỷ lệ debt-to-GDP sẽ bùng nổ (đường màu xanh).
Tuy nhiên, kể từ sau cuộc đại suy thoái năm 2008, tăng trưởng kinh tế Mỹ đã bị kìm hãm nặng nề so với trước.
Cũng kể từ cuộc đại suy thoái 2008-2010 + đại dịch Covid, chính phủ Mỹ đã chi ra một lượng lớn tiền để kích thích nền kinh tế tăng trưởng trở lại…
… điều này cũng góp phần vào thâm hụt ngân sách tài khóa, đẩy chi phí vay nợ cao hơn so với tốc độ tăng trưởng (trong bối cảnh nợ cộng dồn tăng cao kỷ lục ~33,118 tỷ USD) .
Nước Mỹ hiện đang chi tiêu 44% GDP mỗi năm, ngang bằng với Thế chiến thứ 2.
Chỉ riêng chi phí trả lãi nợ đã chiếm 20.7% nguồn thu của chính phủ.
Quan trọng nhất là lãi suất vay nợ trung bình (r) 2.84% > tăng trưởng GDP tiềm năng (~1.7%) (biểu đồ phía trên của FRED).
Do vậy, với lãi suất vay nợ đang ở mức cao hơn so với tăng trưởng (r>g), nợ công của Mỹ sẽ có khả năng bùng nổ cao hơn, dự đoán lên tới ~200% GDP vào năm 2050.
Và khó khăn hơn nữa, mức tăng nợ quốc gia (so với năm 1950) đang tăng cao hơn (và nhanh hơn) so với mức tăng GDP của Mỹ!
Mối đe dọa từ cuộc khủng hoảng nợ công tại Mỹ
Cuộc khủng hoảng nợ công có thể mang lại nguy cơ stagflation nếu chính phủ không thể xử lý ổn thỏa
Giải pháp duy nhất mà chính phủ Mỹ có thể đưa ra hiện tại là kế hoạch mua lại nợ (Treasury Buyback) bắt đầu từ năm 2024.
Việc mua lại trái phiếu kho bạc của chính phủ Mỹ sẽ tăng thanh khoản trên thị trường, không khác gì QE.
Trong khi kế hoạch của Fed trong kỳ họp FOMC vừa qua vẫn là giữ tinh thần của chính sách tiền tệ thắt chặt trong năm tới.
Bài viết liên quan: Góc nhìn kinh tế toàn cầu kỳ cuối (phần đầu bài viết).
=> Nếu lúc đó, lạm phát vẫn chưa thể về mức 2%, liệu việc đảo ngược lại chính sách tiền tệ thắt chặt có làm gia tăng nguy cơ stagflation (combo kinh tế đình trệ + lãi suất cao + mà lạm phát vẫn không được kiểm soát) của Mỹ hay không?
FYI: các hợp đồng Swap 5Y đang cho thấy thị trường kỳ vọng lạm phát dài hạn ở trên mức target 2% của Fed (và cả ECB).
=> Có thể nói, chính phủ Mỹ đang bối rối trong cuộc khủng hoảng lần này!
Cuộc khủng hoảng nợ công có thể kéo theo các cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng.
Đây không phải lần đầu Viet Hustler cảnh báo về sự liên đới giữa khủng hoảng nợ công và khủng hoảng tài chính ngân hàng:
Các giai đoạn khủng hoảng nợ công gia tăng trên thế giới luôn đi kèm với khủng hoảng ngân hàng và tài chính.
Nguyên nhân:
Các tổ chức tín dụng (pension funds, mutual funds, insurance, banks…) giữ một lượng lớn trái phiếu chính phủ như một dạng tài sản an toàn, và tài sản thế chấp để vay trên thị trường interbank và repos.
=> Khủng hoảng nợ công sẽ khiến lợi tức trái phiếu tăng cao, làm trầm trọng hơn các khoản lỗ từ việc nắm giữ trái phiếu (unrealized loss) của các tổ chức tín dụng.
Case study:
Bài học về cuộc khủng hoảng Baring: Năm 1890 khi Argentina và Uruguay tuyên bố trì hoãn trả các khoản nợ bằng đồng Sterling, không chỉ các ngân hàng ở Buenos Aires tuyên bố phá sản, mà chính ngân hàng Baring Brothers (chủ nợ lớn của Argentina), một trong “Europe’s six power” của hệ thống ngân hàng Châu Âu thời kỳ đó, cũng tuyên bố phá sản.
Lãi suất trên thị trường sẽ duy trì ở mức cao trong dài hạn
Đây là ảnh hưởng của tình trạng “bear steepening” trên thị trường tài chính trong bối cảnh nền kinh tế yếu đi (nguồn MacroAlf):
Xu hướng “bear steepening” xảy ra khi lãi suất tăng cao hơn đối với toàn bộ trái phiếu nhưng trái phiếu với thời hạn đáo hạn muộn hơn lại có tốc độ tăng lãi suất tăng cao hơn (delta cao hơn) - biểu đồ cột màu xanh phía dưới.
=> do đó dịch chuyển toàn bộ đường cong về lãi suất Fed fund kỳ vọng lên cao hơn trong dài hạn - biểu đồ phía trên (Market-implied Fed Funds).
Thị trường kỳ vọng lãi suất từ Fed cao hơn:
… đơn giản vì Fed sẽ kéo dài chu kỳ lãi suất cao để kiềm chế lạm phát nếu chính phủ thực hiện chương trình buyback (đảo ngược QT của Fed) (ý kiến của Viet Hustler),
… trong khi Fed tự tin soft-landing với phương châm “this time is different” (lần này tình hình kinh tế khác xa so với những lần lạm phát trước - theo MacroAlf).
Nhưng việc kéo dài chu kỳ lãi suất cao trong dài hạn của Fed sẽ khiến doanh nghiệp, sau khi nợ cũ đã đáo hạn trong 2 năm tới, thì sẽ phải vay vốn với lãi suất cao.
=> Kế hoạch soft-landing của Fed sẽ thất bại, thậm chí sẽ kéo theo một đợt suy thoái khá nặng nề do lần này, chính phủ không thể “tiếp tục vay nợ” để tài trợ cho những dự án kích thích tăng trưởng kinh tế!
KẾT LUẬN
Nước Mỹ lần đầu tiên đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nợ công và khả năng vỡ nợ của chính phủ khi: thâm hụt tài khóa đã lên tới 6% GDP + chi phí trả lãi cho dư nợ hiện tại đã vượt quá chi tiêu quốc phòng. Trong khi tình trạng hơn 1 năm qua, lãi suất vay nợ của Mỹ đã tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của GDP (r > g), điều này giải thích cho tỷ lệ Nợ/GDP ngày càng tăng, và được dự đoán là sẽ tăng lên đến 200% vào năm 2050.
Thực tế, nguy cơ lớn nhất đối với nền kinh tế Mỹ và toàn cầu một khi Mỹ vỡ nợ là điều không thể lường trước, bởi lẽ vai trò của nền kinh tế Mỹ quá lớn đối với toàn cầu, không đơn giản chỉ như những lần vỡ nợ của các quốc gia khác.
Tuy nhiên, trước mắt, tình trạng nợ công tổn đọng ở mức cao có thể gây ra 3 vấn đề lớn nhất đối với nền kinh tế Mỹ:
Nguy cơ stagflation nếu chính sách tài khóa của chính phủ Mỹ không song hành đối với chính sách tiền tệ của Fed.
Nguy cơ khủng hoảng tài chính toàn cầu từ khủng hoảng nợ công của Mỹ.
Nguy cơ lãi suất dài hạn sẽ được điều chỉnh ở mức cao hơn. Gây khó khăn cho doanh nghiệp, và có thể dẫn đến suy thoái kinh tế trong một thời gian dài (và chính phủ sẽ không có đủ tiền để thực hiện các chính sách kích thích kinh tế).
Giải pháp duy nhất mà chính phủ Mỹ có được hiện tại là chương trình buyback nợ sẽ được bắt đầu vào năm 2024. Tuy nhiên, như Viet Hustler đã nêu trên, chương trình này có thể sẽ dẫn đến tình trạng stagflation nếu thời điểm đó lạm phát vẫn cao và Fed vẫn đang duy trì QT. Và cho dù là dùng tiền để mua lại nợ, thì tiền đó cũng đến từ tiền thuế của người dân.
Tới một thời điểm nhất định, tình trạng thâm hụt ngân sách chính phủ đáng báo động của Mỹ sẽ là gánh nặng cho chính người dân Mỹ: Mỹ sẽ có thể phải tăng thu thuế đi kèm với kế hoạch cắt giảm chi tiêu chính phủ!




















Bình luận (0)
Chưa có bình luận nào
Hãy là người đầu tiên bình luận
Đăng nhập để bình luận