KINH TẾ VĨ MÔ

Khủng hoảng nợ công lan rộng tới các nền kinh tế lớn

Lợi tức trái phiếu của các chính phủ phương Tây tăng vọt trong khi tiêu dùng-đầu tư tại Trung Quốc sụp đổ

Cuối năm ngoái, nền kinh tế toàn cầu còn đặt nhiều kỳ vọng vào việc mở cửa của Trung Quốc, hậu thời kỳ Zero-Covid, sẽ sôi động hóa hoạt động thương mại toàn cầu và làm giảm lạm phát (do việc thông thương sẽ giảm giá cả hàng hóa). Nhưng trên thực tế, kinh tế Trung Quốc hiện tại đang đi vào thời kỳ nguội lạnh với thị trường bất động sản đóng băng gần 2 năm và nhu cầu tiêu dùng-đầu tư sụp đổ. 

Trong khi đó, tuần qua, thị trường Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản chứng kiến lợi tức trái phiếu chính phủ không ngừng tăng cao, làm trầm trọng thêm gánh nặng nợ công. Khả năng vỡ nợ của một quốc gia, trước kia, chỉ nhìn thấy ở các nước kém phát triển hơn, thì nay lại tiềm ẩn tại những cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới. 

Vậy khủng hoảng nợ công có ảnh hưởng gì đến nền kinh tế?

Bài viết kinh tế vĩ mô cuối tuần của Viet Hustler sẽ dành để điểm lại những khó khăn trong việc vay vốn của các chính phủ lớn nhất thế giới tuần qua, trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô có nhiều chuyển biến xấu. 

Đặc biệt, Viet Hustler sẽ phân tích kỹ về ảnh hưởng qua lại của thị trường trái phiếu các quốc gia này, với những hệ quả kéo theo của của khủng hoảng nợ công hiện tại lên tăng trưởng kinh tế toàn cầu. 

Phần lớn chính phủ các cường quốc bắt đầu gặp khó khăn trong hoạt động vay nợ

  • Các cường quốc (Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và các quốc gia Ả Rập) đứng đầu trong tỷ trọng nợ công /GDP, vượt xa các nước có thu nhập thấp (LIC). Xu hướng này dự đoán là sẽ tiếp tục cho đến năm 2027.

  • Trên toàn cầu: tổng dư nợ chính phủ đã đạt mức gần USD 305,000 tỷ cho đến quý I/2023.

=> Rủi ro do nợ công đã lan đến các quốc gia giàu có nhất: 

  • Nhu cầu về trái phiếu dài hạn của chính phủ giảm thiểu hoặc chi phí vay nợ không ngừng tăng là vấn đề lớn mà các cường quốc đang gặp phải tuần qua.

    • Lợi tức trái phiếu toàn cầu đều tăng cao, cùng với làn sóng bán tháo trên toàn cầu trái phiếu chính phủ.

    Image

Thị trường trái phiếu Mỹ

  • Lợi tức trái phiếu kho bạc dài hạn 30Y của Mỹ đã tăng lên đến 4.42%, mức cao nhất kể từ năm 2011.

    Image
  • Quy luật “high risk - high return” đang đổ vỡ trên thị trường tài chính lớn nhất thế giới: Lợi tức trái phiếu 10 năm của Mỹ hiện ở mức 4.28%, gần bằng mức của năm 2007, và gần đuổi kịp lợi suất của S&P 500 (4.66%).

    Image

    => Thay vì đổ vốn vào các doanh nghiệp và thị trường, các tổ chức tài chính có thể đầu tư vào thị trường trái phiếu công, vừa an toàn lại có lợi suất tốt.

    Image
    • Đây là lý do chính kéo dài credit crunch ở thời điểm hiện tại.

  • Tuy nhiên, nhu cầu trái phiếu của Mỹ trên toàn cầu cũng đang giảm dần:

    • Trung Quốc đã cắt giảm tỷ lệ nắm giữ Trái phiếu Kho bạc Mỹ, với mức thời hạn đáo hạn trung bình xuống còn 14 năm (tức Trung Quốc giảm thiểu việc nắm giữ T-bond dài hạn).

      Image
    • Dự trữ T-bond của Saudi Arabia cũng giảm xuống mức thấp nhất trong hơn sáu năm (biểu đồ từ Bloomberg)

      Image
    • Sau khi lợi suất trái phiếu 10 năm của Nhật tăng (do Nhật nới lỏng YCC), những các nhà đầu tư Nhật Bản (nhóm nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trái phiếu Mỹ nhiều nhất), trở nên ít quan tâm đến trái phiếu Mỹ hơn và yêu cầu mức phí bảo hiểm cao hơn cho trái phiếu Mỹ (yêu cầu lợi tức cao hơn).

Thị trường trái phiếu Châu Âu

  • Thị trường này khá phân mảnh khi khối Eurozone cùng chung đồng tiền và chính sách tiền tệ nhưng trái phiếu công được phát hành lẻ tẻ bởi các chính phủ thành viên.

  • Đối với khối Eurozone (điểm màu đỏ), lợi tức trái phiếu công cao đối với các quốc gia có tỷ lệ nợ/GDP cao. 

    Image
  • Trong nửa năm qua, lợi tức trái phiếu Đức (tờ trái phiếu chuẩn cho credit spread tại Eurozone) đã không ngừng tăng cao.

    Image
  • Hungary là ví dụ của một kinh tế ngoài Eurozone nhưng trong EU với lạm phát vẫn còn ở mức 18%.

    • Lợi tức trái phiếu Hungarian đã lên quá cao dẫn đến nguy cơ credit crunch như tại Mỹ: Người dân Hungary đang ngừng gửi tiền vào ngân hàng mà đổ tiền tiết kiệm của họ vào trái phiếu chính phủ với lợi suất cao.

Thị trường trái phiếu tại Nhật Bản

  • Trong phiên đấu giá trái phiếu 20 năm của Nhật Bản (JPB), nhu cầu mua vào của nhà đầu tư đã trượt dốc nhanh chóng ngay sau phiên giao dịch diễn ra…

    • Động thái này tiếp tục đẩy nhu cầu về trái phiếu Nhật trên thị trường tự do của nhà đầu tư xuống thấp nhất kể từ năm 1987.

    Image
  • Cũng trong phiên đấu giá này, lợi tức cho tờ trái phiếu 20Y của Nhật cũng tăng cao nhất kể từ năm 1987, do sức ép từ các nhà đầu tư yêu cầu lợi suất cao hơn để mua JGB.

    Image

Trên phương diện quốc tế:

  • Lợi suất JGB tăng sẽ đe dọa đến sự sụt giảm trong nhu cầu trái phiếu trên toàn thế giới, do (như đã nói ở trên), nhà đầu tư Nhật Bản trước kia nắm khá nhiều trái phiếu nước ngoài của Mỹ và EU…

    • Đây cũng là lý do mà lợi tức trái phiếu của EU và Mỹ tiếp tục tăng cao hơn tuần qua.

  • Chênh lệch lợi suất trái phiếu 10 năm giữa Mỹ-Nhật Bản đã tăng lên 3.6%:

    • …lợi tức trái phiếu của cả 2 nước đều tăng lên, nhưng tốc độ tăng của trái phiếu Mỹ vẫn nhanh hơn do ảnh hưởng thay thế như trên.

    • Lợi tức JPB tăng cũng khiến cho giá trị đồng tiền nội địa của chính phủ này tăng: Giá trị của đồng JPY đã tăng vọt tương tự như hồi BOJ can thiệp vào thị trường tự do bằng cách thay đổi biên độ điều chỉnh của đường cong lợi tức (YCC).

    Image

Thị trường Trung Quốc

  • Thị trường bất động sản khổng lồ nước này không có dấu hiệu phục hồi sau sự sụp đổ của Evergrande gần 2 năm trước khiến cả thị trường đóng băng.

    • Chỉ số môi trường kinh doanh bất động sản tại Trung Quốc đang rơi tự do.

    • Trong khi đó, có đến 27 triệu m2 BĐS đang bị bỏ trống ở Bắc Kinh, và diện tích BĐS bỏ trống đang không ngừng tăng lên tại đây...

    Image
  • Cùng với thị trường BĐS đóng băng, sức mạnh tiêu dùng sụt giảm đi kèm với tình trạng giảm phát của giá cả, các chính phủ địa phương đang có nguy cơ vỡ nợ là những gì đang diễn ra tại Trung Quốc lúc này.

  • Nền kinh tế Trung Quốc đã hoàn toàn đổ vỡ:

    • …doanh số bán lẻ không tăng trưởng (+0%),

    • … đầu tư sụt giảm đi kèm với sản lượng công nghiệp rơi xuống mức thấp nhất trong vòng 3 thập kỷ.

    Trung Quốc liệu đã chấm dứt thời kỳ tăng trưởng nóng?

    • Tình hình có thể còn tệ hơn nữa trên thị trường lao động: tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm người trẻ tuổi tăng cao đột biến lên 21.3% (cứ 5 người trẻ tuổi sẽ có 1 người thất nghiệp).

      • Ngay sau dữ liệu lao động cực xấu này, chính phủ Trung Quốc ra thông báo sẽ ngừng công bố tỷ lệ thất nghiệp của người trẻ tại Trung Quốc.

      Image
  • Giá trị đồng Nhân dân tệ Trung Quốc gần chạm mức thấp nhất trong vòng 14 năm qua do ảnh hưởng của chính sách cắt giảm lãi suất từ ngân hàng Trung Ương Trung Quốc (PBOC).

    (Note: hình bên dưới chiều của trục tung bị đảo ngược)

    Image
  • Cũng do chính sách QE của PBOC, trái ngược với trái phiếu Mỹ và Châu Âu (lợi tức tăng do nhà đầu tư yêu cầu nhiều bảo hiểm rủi ro vỡ nợ hơn), lợi tức trái phiếu 10 năm của Trung Quốc tiếp tục giảm càng tạo lý do khiến nhà đầu tư quay lưng với trái phiếu này: 

    • Lợi tức trái phiếu 10 năm của Trung Quốc hiện ở mức 2.6%, mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng Covid (2020).

    Image
  • Lợi tức trái phiếu Mỹ chưa từng bỏ xa lợi tức trái phiếu Trung Quốc như chart bên dưới trong vòng 10 năm trước thời kỳ Covid (do trái phiếu Trung Quốc có độ rủi ro cao hơn) .

    Nhưng hiện tại, thị trường trái phiếu đang chứng kiến sự đảo chiều khiến trái phiếu Mỹ có lợi tức cao hơn nhiều trái phiếu Trung.

    • Nguyên nhân không phải là do trái phiếu Mỹ có độ rủi ro cao hơn trái phiếu Trung Quốc, mà đa phần do nền kinh tế Trung Quốc ngừng tăng trưởng nóng và chính sách cắt giảm lãi suất khiến giá trị đồng CNY giảm thiểu. 

    Image

Nền kinh tế toàn cầu sẽ như thế nào nếu các chính phủ lớn gặp khó khăn trong việc vay nợ

Các chính phủ gặp khó khăn trong việc vay nợ (nhu cầu trái phiếu công giảm và lợi tức trái phiếu tăng lên), họ sẽ phải cắt giảm chi tiêu cho các dự án kinh tế phát triển.

  • Phần lớn việc ngừng các dự án công để phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế:

    • Tăng trưởng GDP của các quốc gia vỡ nợ đều thấp hơn xu hướng tăng trưởng trước khi vỡ nợ.

Trong bối cảnh trên bờ vực suy thoái của phần lớn các nền kinh tế phát triển, việc các chính phủ cắt giảm chi tiêu chính phủ có thể kéo dài giai đoạn suy thoái.

Đặc biệt tại Mỹ, khả năng suy thoái đang thực sự đến gần nếu tiêu dùng sụp đổ do rủi ro giảm phát (deflationary risk):

  • Hiện tại người dân Mỹ vẫn đang tiêu dùng khá nhiều, điều này góp phần duy trì tăng trưởng kinh tế ở thời điểm hiện tại: doanh số bán hàng tháng 07/2023 vẫn tiếp tục tăng 0.7% m/m.

  • Tuy nhiên, theo Bloomberg, trong 2 năm gần đây người tiêu dùng tại Mỹ đang rút USD 2,000 tỷ từ các khoản tiền tiết kiệm được trong thời kỳ đại dịch để tiêu dùng:

  • Sắp tới, chúng ta sẽ quan sát được ảnh hưởng của việc tỷ lệ tiết kiệm bị bào mòn…

  • Trên thị trường lao động: tăng trưởng tiền lương có vẻ đang trên đà đi xuống.

    • Theo dữ liệu mới nhất từ indeed, tăng trưởng tiền lương trong tháng 7 đã xuống mức +4.7% y/y,  (giảm từ +5.1% tháng 6 và +6.2% y/y hồi đầu năm).

    Image

    => Doanh nghiệp bớt đi gánh nặng tiền lương:

    • Tần suất nhắc đến cụm từ wage pressure (áp lực lương) trong các cuộc họp tài chính (earning calls) của khối doanh nghiệp S&P 500 đã giảm thiểu đáng kể trong thời gian này.

      Image
    • Xu thế tăng trưởng tiền lương (giá cả lao động) đang bình thường hóa cũng cho thấy nhu cầu lao động của doanh nghiệp không còn cao:

      … nếu cơn lốc sa thải đến sẽ làm thất nghiệp tăng và khả năng suy thoái sẽ cao hơn. 

      • Nhưng tình huống hiện tại khá đặc thù: cần thêm nhiều thời gian để quan sát liệu biến cố trên thị trường lao động có thể xảy ra hay không, do hiện tại các doanh nghiệp đang hạn chế sa thải (nguyên nhân từ những khó khăn trong việc thuê lại nhân viên mà họ đối mặt sau đại dịch). 

  • Chỉ số tổng hợp leading indicators (các chỉ số phản ánh tức thời tình trạng tiêu dùng, lao động và kinh tế vĩ mô…) tiếp tục giảm -0.4% m/m (tháng thứ 16 giảm liên tiếp) và -7.5% y/y.

    • Đây là mức tương đương với các giai đoạn suy thoái trong quá khứ. 

    Image

Ngoài ra, khủng hoảng nợ công của các chính phủ lớn còn gửi đi một tín hiệu rất xấu trên thị trường tài chính: khiến niềm tin của nhà đầu tư sụt giảm. 

  • Tuần qua, lệnh mua Put Option trên CBOE (sàn giao dịch Option Chicago) đã đạt mức cao nhất kể từ đợt banking crisis vào tháng 3/2023 do tâm lý bearish của thị trường đối với bối cảnh nền kinh tế.

    (Note: Trục tung bên trái của Put/Call ratio bên dưới - đường màu đỏ đảo ngược từ cao đến thấp).

    Image
  • Việc một quốc gia phát triển có khả năng vỡ nợ sẽ khiến cho thị trường hoảng loạn: nếu  chính trái phiếu chính phủ các nước này không còn là tài sản an toàn(risk-free) thì lợi tức của các trái phiếu này và hàng loạt các tài sản khác sẽ tăng cao. 

    • Nếu cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp chưa kịp điều chỉnh tăng lợi tức => quy luật đánh đổi giữa risk-return trên thị trường tài chính bị phá hủy (hình trạng hiện tại).

      => các tổ chức tài chính đầu tư vào trái phiếu với lợi tức cao thay vì các tài sản tài chính rủi ro khác.

    • Nếu doanh nghiệp điều chỉnh lợi tức trái phiếu/cổ phiếu doanh nghiệp tăng => chi phí vay vốn doanh nghiệp sẽ tăng.

    Cả 2 trường hợp trên đều dẫn đến việc doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn, làm giảm sản lượng công nghiệp và tăng trưởng. 

KẾT LUẬN

Các chính phủ đang ngồi trên đống nợ khổng lồ đi kèm với bối cảnh kinh tế vĩ mô khó khăn (lạm phát cao, khủng hoảng tín dụng ở phương tây, hay tiêu dùng sụp đổ và bất động sản đóng băng tại Trung Quốc). Hệ quả là phần lớn chính phủ của các cường quốc kinh tế đều gặp khó khăn trong vấn đề vay nợ. 

  • Đối với các quốc gia duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, chính phủ đều phải đối mặt với chi phí vay nợ không ngừng tăng cao cùng với nhu cầu mua trái phiếu giảm.

  • Trong khi đối với Trung Quốc, nền kinh tế đã bước vào thời kỳ giảm phát và chính phủ đang phải nỗ lực kích thích tiêu dùng bằng chính sách tiền tệ thả lỏng. Hệ quả là đồng CNY bị mất giá và lợi tức trái phiếu chính phủ Trung Quốc giảm. Với lợi tức trái phiếu chính phủ trung ương thấp trong khi chính phủ địa phương lại đang trong tình trạng vỡ nợ, thị trường trái phiếu của Trung Quốc sẽ càng ảm đạm.

Khó khăn trong việc vay nợ và chi phí trả lãi nợ cao sẽ khiến các chính phủ phải cắt giảm chi tiêu. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ công và gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế (do chi tiêu chính phủ là một phần trong GDP và chính phủ sẽ hạn chế đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế công).

Hệ quả là nếu suy thoái xảy ra thì có thể sẽ kéo dài hơn mức bình thường do chính phủ sẽ gặp hạn chế trong những chính sách kích cầu thông qua chính sách tài khóa.

Tại Mỹ, khi nền kinh tế vẫn còn kiên trì do sức mạnh tiêu dùng và thị trường lao động thắt chặt. Soft-landing hay hard-landing còn phụ thuộc vào độ dài của chính sách lãi suất higher-for-longer từ Fed. 

  • Dữ liệu về thị trường lao động trong tháng 7 và tháng 8 rất quan trọng đối với Fed trong việc hoạch định chính sách lãi suất giai đoạn cuối năm. 

  • Trong khi sức mạnh tiêu dùng của người dân Mỹ sẽ được kiểm định trong quý IV/2023 khi cú shock thu nhập của người dân bắt đầu hiện hữu:

    • Tỷ lệ tiết kiệm của các hộ gia đình bắt đầu cạn kiệt.

    • Các ngân hàng thắt chặt các điều kiện cho vay tín dụng cả với thẻ credit.

    • Việc hoàn trả các khoản vay của Sinh viên sẽ được tái khởi động vào tháng 10.

Đăng nhập để đọc toàn bộ bài viết

Tạo tài khoản để truy cập nội dung premium.

0

Bình luận (0)

Chưa có bình luận nào

Hãy là người đầu tiên bình luận