Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009 là đợt khủng hoảng lịch sử dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế kéo dài và nghiêm trọng nhất kể từ Đại Khủng hoảng thập niên 1930s. Sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers vào 09/15/2008 cũng được coi là thất bại lớn nhất trong lịch sử ngành tài chính ngân hàng.
Trong suốt thời điểm khủng hoảng năm 2007-2008, các bên tham gia thị trường mới cảm nhận sâu sắc tầm quan trọng của những lỗ hổng tài chính do vấn đề thông tin thiếu minh bạch trên thị trường / bất cân xứng thông tin (information asymmetry). Hai hậu quả trực tiếp của information asymmetry chính là
Lựa chọn đối nghịch (adverse selection): việc các bên tham gia thị trường, do không có đủ thông tin, nên đưa ra những lựa chọn sai khi quyết định hợp tác.
Rủi ro đạo đức (moral hazard): là việc bên có nhiều thông tin hơn, sau khi thành công hợp tác (ví dụ như ký kết hợp đồng bảo hiểm, vay vốn…), thì lại hành động dựa trên lợi ích của bản thân - do biết rằng bên đối tác chịu phần lớn rủi ro.
Đây cũng là 2 yếu tố khiến cuộc khủng hoảng năm 2008 lan rộng và trở lên trầm trọng hơn. Trong bài viết ngày hôm nay, Việt Hustler sẽ cung cấp cho bạn đọc cái nhìn tổng quan về vai trò của việc thông tin thiếu minh bạch / bất cân xứng thông tin (information asymmetry) trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Bất cân xứng thông tin: nguyên nhân dẫn đến Adverse Selection và Moral Hazard
Bất cân xứng thông tin (information asymmetry) đơn giản là một số bên tham gia thị trường tài chính có nhiều thông tin hơn về thị trường.
Do vậy, họ có thể có những hành động gây tổn thất cho bên hợp tác, và rộng hơn là cả xã hội.
Hai hệ quả lớn nhất của information asymmetry là: Lựa chọn đối nghịch (Adverse Selection) và Rủi ro đạo đức (Moral Hazard) trong lĩnh vực tài chính.
Adverse selection và Moral hazard luôn là tác nhân chính của nguy cơ khiến các cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng lan rộng.
1. Lựa chọn đối nghịch (Adverse Selection)
Lựa chọn đối nghịch là hệ quả của việc thông tin trên thị trường không minh bạch dẫn đến những quyết định (hợp tác) tài chính sai lầm.
Adverse Selection xuất hiện trước khi giao dịch được thực hiện: khi các bên bắt đầu lựa chọn có hợp tác hay không.
Bắt đầu từ việc những người đi vay tiềm ẩn rủi ro cao lại là những người tích cực trong việc tìm kiếm khoản vay.
Người liều lĩnh hay có động cơ lừa đảo thường là hăm hở tích cực đi vay nhất bất chấp lãi suất cao vì họ biết rõ khả năng trả nợ là không có.
Do đó, sự lựa chọn đối nghịch có thể khiến bên cho vay (ngân hàng) có thể cấp tín dụng cho người vay có rủi ro cao, trong khi lại từ chối người vay tin cậy khác.
Đây là vấn đề thông tin bị che đậy, “hàng xấu đẩy hàng tốt ra khỏi thị trường” (good risks drop out).
Hậu quả của Adverse Selection là:
Hoặc các bên tham gia thị trường đưa ra các lựa chọn sai lầm:
Ví dụ trên: ngân hàng cho các đối tượng nợ xấu vay.
Hoặc chính các bên tham gia thị trường e dè về vấn đề Adverse Selection nên quyết định dừng mọi hợp tác (đặc biệt trong trường hợp nền kinh tế đang khủng hoảng):
Điều này dẫn đến việc thị trường đóng băng.
Các bên tham gia thị trường cũng mất đi cơ hội hợp tác với các đối tác tiểm năng.
=> Sự thất bại của thị trường (market failure)
Ví dụ: Ngân hàng thường hạn chế cho vay (hay thắt chặt điều kiện cho vay) trong các đợt khủng hoảng vì sợ tình trạng adverse selection.
=> mất đi cơ hội kiếm lời từ các khoản vay / khách hàng tiềm năng.
=> thị trường nợ (qua hệ thống ngân hàng) đóng băng (market failure).
Ví dụ tiêu biểu nhất về Adverse Selection là thị trường xe cũ (lemon market) của nhà kinh tế đoạt giải Nobel Akerlof:
Trên thị trường có 2 loại xe: tốt và xấu, với vẻ ngoài giống nhau.
Nếu có thông tin đầy đủ, xe còn tốt có giá 20,000 USD và xe xấu chỉ có giá 10,000 USD.
Do không phân biệt được từ vẻ ngoài nên giá bình quân trên thị trường là 15,000 USD.
Đối với người bán: họ thường biết rõ về chiếc xe của mình đem bán là đang còn chạy tốt hay đã kém chất lượng.
Nếu đó là xe chất lượng kém, họ sẽ vui mừng khi bán được với giá trung bình của thị trường - giá bán được sẽ > giá trị của chiếc xe
Nếu chiếc xe có chất lượng tốt, thì người bán biết rõ rằng chiếc xe của mình đang bị định giá thấp hơn so với giá mà người mua muốn trả và không muốn bán chiếc xe của mình nữa.
=> Kết quả: Rất ít xe cũ có chất lượng tốt được đem ra để bán; những chiếc xe được đem ra bán lại có chất lượng dưới mức trung bình
=> Ít người muốn mua xe cũ do adverse selection.
=> Hoạt động của thị trường xe hơi qua sử dụng vì thế mà không hiệu quả (market failure).
2. Rủi ro đạo đức (Moral Hazard)
Rủi ro đạo đức (moral hazard) là hiện tượng bên có nhiều thông tin hơn mà chịu rủi ro ít hơn, sau khi đã đạt được thỏa thuận hợp tác, lại thay đổi hành vi gây bất lợi cho bên kia.
Đây là vấn đề do thông tin bất cân xứng gây ra sau khi giao dịch đã xảy ra.
Ví dụ 1:
Khi vay vốn, bên vay nói rằng họ sẽ đầu tư vào dự án có rủi ro thấp đi kèm với suất sinh lợi vừa phải.
Tuy nhiên, sau khi đã vay được vốn thì bên vay đã sử dụng vốn sai mục đích, đầu tư vào những hoạt động kinh doanh rủi ro hơn rất nhiều.
Khi đó, nếu thắng lợi thì doanh nghiệp được rất nhiều (nhưng chỉ phải trả ngân hàng số tiền vay ban đầu), trong khi nếu thất bại và mất vốn thì ngân hàng phải chịu rủi ro nợ xấu (rủi ro lớn hơn).
Ví dụ 2:
Các ngân hàng có thể có xu hướng đầu tư mạo hiểm hơn mà ít có hành động phòng ngừa rủi ro khi họ biết rằng Ngân hàng Trung Ương sẽ trợ giúp khi có bank-run.
Bài viết liên quan: Lạm phát, moral hazard và Sahm Rule.
Thông tin bất đối xứng: Adverse Selection và Moral hazard trong Khủng hoảng tài chính 2007-2008
Sau cơn chấn động của thị trường chứng khoán Mỹ những năm 2000 - 2001, rất nhiều người đã tháo chạy khỏi thị trường chứng khoán và đầu tư sang lĩnh vực bất động sản.
Đáp lại nhu cầu của nhà đầu tư, hoạt động cho vay thế chấp đã nở rộ, đặc biệt là các khoản vay mortgage dưới chuẩn (subprime mortgage).
Subprime mortgage: ngân hàng chấp nhận cho vay cả những khách hàng không đủ tiêu chuẩn vay vốn, với mức lãi suất cao hơn lãi suất thị trường…
Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có công ăn việc làm ổn định, có điểm tín dụng thấp, tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ đến hạn…
Tuy nhiên, ngân hàng/các tổ chức tín dụng lại không muốn gánh chịu những rủi ro ấy, họ muốn chuyển giao rủi ro của subprime mortage thông qua một hoạt động gọi là nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitization) các khoản vay rủi ro này.
Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitization)
Chứng khoán hóa là quá trình chuyển đổi các khoản vay kém thanh khoản thành chứng khoán có thể bán được trên thị trường.
Securitization là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại gom các khoản vay nợ của nhiều bên thành một rổ và chia nhỏ rổ đó thành một loại chứng khoán phái sinh để bán ra thị trường.
Những người mua chứng khoán này thực chất sẽ là chủ nợ mới của những người đi vay (mortgage):
Họ nhận được phần lớn dòng tiền mà những người vay (mortage) trả nợ.
Tất nhiên, họ cũng gánh toàn bộ rủi ro…
Ngân hàng ở giữa ăn chênh lệch từ dòng tiền đó nhưng lại không chịu bất kỳ rủi ro nào.
Người cho vay ban đầu cũng hoàn toàn chuyển giao rủi ro của họ cho các khoản nợ xấu (trộn lẫn các khoản nợ khác).
Hai công cụ chứng khoán phái sinh của thị trường nợ BĐS sau nghiệp vụ securitization là MBS và CDO.
MBS (Mortgage Back Security): chứng khoán đảm bảo bằng các khoản vay mortgage, với giá trị MBS được xác định dựa trên khoản vay gốc và lãi suất thu được của rổ mortgage.
CDO (collateralized debt obligation): áp dụng cho các tài sản lợi tức cố định (fixed-income assets) - chủ yếu là nợ trái phiếu, mortgage, nợ ngân hàng.
Rộng hơn thì có ABS (Asset-Backed Security): rổ chứng khoán được đảm bảo bằng nhiều loại tài sản tài chính khác nhau.
Các bên tham gia vào một quy trình securitization bao gồm:
Originators - những cá nhân hay tổ chức cho vay đầu tư bất động sản (người cho vay thực sự) bán các khoản cho vay của họ (ví dụ mortgages) cho các ngân hàng thương mại (như Freddie, Fannie).
Các ngân hàng này “bó” các khoản vay nợ từ nhiều bên lại, rồi phân nhỏ ra để làm tăng tính thanh khoản, sau đó bán ra như chứng khoán cho công chúng.
Các khoản vay/tài sản được phân thành nhiều tranches (lớp):
Junior tranches: rủi ro cao nhất — được bán với mức lợi suất cao để bù đắp cho rủi ro.
Mezzanine tranche: các khoản vay có mức độ rủi ro trung bình — lợi suất trung bình tương xứng với rủi ro.
Senior tranches: rủi ro thấp được bán cho nhà đầu tư với mức lợi nhuận thấp hơn nhưng an toàn nhất.
Thứ tự ưu tiên khi phân chia dòng tiền: Đầu tiên là Senior tranches > Mezzanine tranche > Junior tranches cuối cùng.
Các ngân hàng đầu tư sẽ (securitizers) sẽ tham gia thẩm định và phát hành các chứng khoán này.
Ngoài ra, có thể sẽ có các bên bảo hiểm (insurers) tham gia việc phát hành chứng khoán…
Người cho vay ban đầu (originators) đã hoàn toàn chuyên giao được rủi ro - họ cũng cho vay subprime với lãi suất cao và giàu lên nhanh chóng, nên được các công ty xếp hạng (rating companies) đánh giá cao (AAA).
Do vậy, các nhà đầu tư phổ thông trên thị trường vốn càng hưng phấn, và giá bất động sản càng bị bốc lên cao.
Sự phức tạp của các loại chứng khoán phái sinh được tạo ra từ hoạt động securitization nằm ở chỗ:
Người mua chứng khoán chịu hoàn toàn rủi ro nhưng lại không biết rõ “con nợ” của mình.
Bản thân ngân hàng và các bên tham gia nghiệp vụ securitization cũng có thể không đánh giá được đúng mức độ rủi ro của rổ các khoản vay do sự phức tạp của nó
Từ đó, sự bất cân xứng thông tin tiềm ẩn trong quá trình chứng khoán hóa này:
Khi người cho vay ban đầu (originators) và các bên phát hành chứng khoán (securitizers) có nhiều thông tin hơn về chất lượng của các khoản vay.
Nhưng rủi ro lại nằm ở người mua chứng khoán — có rất ít thông tin.
Trong giai đoạn 2000-2007: các ngân hàng thu lợi nhuận từ việc bán MBS/CDO với con số khổng lồ, bất chấp rủi ro tiềm ẩn cho nhà đầu tư:
Sự lan rộng của khủng hoảng do rủi ro liên đới (contagion risk)
Sự phức tạp của hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ (tốt xấu lẫn lộn) đã tạo ra một loại rủi ro liên đới (contingent risk) mà các mô hình phòng ngừa rủi ro của hệ thống ngân hàng khi đó đã không tính toán chính xác được.
Nó đã dẫn tới một cuộc đổ vỡ dây chuyền domino trên thị trường nợ và hệ thống ngân hàng:
Khi bong bóng giá nhà bắt đầu xì hơi thì các khoản nợ tín dụng dưới chuẩn (sub-prime lending, thường là nợ thứ cấp và nợ rất rủi ro) bắt đầu gặp rắc rối, do người đi vay bắt đầu không có khả năng trả nợ.
Giá chứng khoán dựa trên những khoản nợ rủi ro nhất này bắt đầu sụt giảm giá mạnh.
Người mua CDO, MBS hay ABS là người hoàn toàn chịu rủi ro, nhưng họ lại không thể trực tiếp đi đòi người cho vay…
Các ngân hàng phát hành chứng khoán phái sinh thường cũng nắm giữ phần lớn các chứng khoán đó… là đối tượng rủi ro tiếp theo.
Dù có nhiều thông tin hơn, nhưng tính phức tạp của các khoản vay thật giả lẫn lộn này khiến họ không thể hoàn lại được số vốn bỏ vào đó.
Cùng một lúc, hàng loạt con nợ bị vỡ nợ với quy mô lớn, khiến cho vốn của các ngân hàng bị bốc hơi nhanh chóng.
Các ngân hàng này bắt đầu hứng chịu bankrun khi người gửi tiền biết được họ có tham gia vào quá trình phát hành chứng khoán phái sinh từ nợ mortgage…
Đối với những loại chứng khoán được bảo hiểm bởi bên thứ 3, các công ty bảo hiểm cũng phải hứng chịu tổn thất nghiêm trọng.
Quan điểm thị trường thay đổi sang mức tiêu cực đối với tất cả các chứng khoán phát sinh từ các khoản nợ nói chung như ABS, MBS hay CDO, bất kể rủi ro nhiều hay ít => adverse selection!
=> Thị trường chứng khoán phái sinh từ nợ sụp đổ (market failure!)
Hệ quả của rủi ro đạo đức trong hệ thống ngân hàng
Hệ thống ngân hàng trước đó tham gia hoạt động securitization bất chấp rủi ro như vậy là do họ vẫn còn được chống lưng cứu cánh bởi Fed:
Fannie và Freddie khi đó sở hữu hoặc bảo đảm cho khoảng 5,000 tỉ USD tiền vay mortgage ở thị trường Mỹ trong chuỗi securitization kể trên.
Năm 2007, tổng lỗ ròng của cả Freddie Mac và Fannie Mae đều lên đến 14.9 tỷ USD.
=> Chỉ cần hoặc Freddie Mac hoặc Fannie Mae sụp đổ sẽ gây tác động dây chuyền nghiêm trọng cho hàng loạt ngân hàng và nhà đầu tư trên toàn cầu.
Do đó, Chính phủ Mỹ không thể chấp nhận việc Freddie Mac hoặc Fannie Mae bị phá sản và quyết định can thiệp bằng cứu trợ(bailout).
Kế hoạch cứu vãn hai ngân hàng này “ngốn” của chính phủ khoản tiền lên đến 187.5 tỷ USD, biến đây trở thành đợt cứu trợ ngân hàng lớn nhất từ trước đến nay của nước Mỹ.
Tuy nhiên, giới tài chính khi đó đã lên án Fed đã cứu trợ các ngân hàng quá dễ dàng.
Việc Fed cứu trợ khiến các ngân hàng có niềm tin rằng chính phủ sẽ bảo lãnh cho họ nếu họ gặp khó khăn về tài chính (moral hazard).
Sự đảm bảo ngầm này đã khuyến khích các ngân hàng chấp nhận rủi ro quá mức.
Sau khi bị lên án vì cứu Freddie Mac và Fannie Mae, Fed quyết định không cứu Lehman Brothers khi ngân hàng này cầu cứu (adverse selection từ Fed).
Điều này tiếp tục tạo ra sự sụp đổ lớn nhất trong lịch sử ngành ngân hàng - châm ngòi cho khủng hoảng tài chính lan rộng.
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (GFC) năm 2008 đóng vai trò như một lời nhắc nhở rõ ràng về sự nguy hiểm của bất cân xứng thông tin trong hệ thống tài chính. Cuộc khủng hoảng đã dần hình thành và diễn ra do:
Rủi ro đạo đức: Người cho vay bắt nguồn từ các khoản thế chấp dưới chuẩn rủi ro, biết rằng chúng có thể được “đóng gói” và bán đi, trong khi các cơ quan xếp hạng tín dụng có khả năng thổi phồng xếp hạng do áp lực của ngành.
Tâm lý “too big to fail” càng khuyến khích việc chấp nhận rủi ro quá mức khi nghĩ rằng Fed sẽ phải ra tay cứu họ.
Lựa chọn đối nghịch: Các công cụ tài chính phức tạp như MBS và CDO đã che giấu rủi ro thực sự của các khoản cầm cố.
Các nhà đầu tư, thiếu thông tin đầy đủ, đã dựa vào xếp hạng tín dụng có khả năng gây hiểu lầm và tham gia vào các khoản đầu tư rủi ro.
Những vấn đề này đã gây ra bong bóng nhà đất và cuối cùng vỡ tung, gây ra tình trạng vỡ nợ trên diện rộng và một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.















Bình luận (0)
Chưa có bình luận nào
Hãy là người đầu tiên bình luận
Đăng nhập để bình luận