KINH TẾ VĨ MÔ

Góc nhìn kinh tế toàn cầu kỳ 3: Déjà vu trong câu chuyện kinh tế Trung Quốc

Điểm tương đồng trong chu kỳ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc và Nhật Bản: điều gì có thể chờ đợi Trung Quốc trong 10 năm tới?

Trải qua 2 thập kỷ tăng trưởng nóng, nền kinh tế của Trung Quốc đã bắt đầu chậm lại, thậm chí có thể nói là đang đi vào bế tắc sau khủng hoảng ngành bất động sản và đại dịch Covid. Trung Quốc đang là nền kinh tế lớn duy nhất trên thế giới đã bước vào thời kỳ thiểu phát. Nguyên nhân do sự sụt giảm tiêu dùng bắt nguồn từ việc người dân mất niềm tin vào hệ thống tài chính. Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBOC) đang liên tục sử dụng các công cụ tiền tệ để kích thích nền kinh tế.

Với chính sách tiền tệ thả lỏng của PBOC, bên cạnh chính sách thắt chặt của các nền kinh tế phương tây, Trung Quốc đang vật lộn với bộ ba bất khả thi (impossible trinity): tỷ giá hối đoái cố định - chính sách tiền tệ độc lập - tự do lưu chuyển vốn. Thực tế, Trung Quốc đang phải gồng mình bảo vệ tỷ giá đồng CNY, ngăn chặn dòng vốn chảy ra nước ngoài, và không thể duy trì chính sách tiền tệ độc lập để giữ thị trường tự do điều chỉnh cung - cầu. 

Viet Hustler is a reader-supported publication. To receive new posts and support my work, consider becoming a free or paid subscriber.

Những người biết về câu chuyện phát triển kinh tế thần kỳ của nước Nhật những năm 1960s - 1990s có thể bắt đầu có những hình ảnh déjà-vu đối với tình trạng của Trung Quốc hiện nay. Liệu Trung Quốc có đang dẫm vào vết xe đổ của Nhật Bản những năm 1990s-2000s? 

Kỳ thứ 3 trong series Góc Nhìn Kinh Tế Toàn Cầu của Viet Hustler sẽ đem đến cho bạn đọc cái nhìn tổng quan về tình trạng nền kinh tế Trung Quốc. Đi kèm với đó là sự so sánh chu kỳ kinh tế Trung Quốc trong những năm qua, với chu kỳ phát triển kinh tế thần kỳ của Nhật Bản thập niên 60s-80s. Từ đó, Viet Hustler sẽ dự đoán ảnh hưởng của nền kinh tế Trung Quốc đối với toàn cầu.

Tình hình kinh tế tại Trung Quốc

Toàn cảnh nền kinh tế Trung Quốc hiện tại:

  1. Thị trường bất động sản Trung Quốc (thị trường có mức vốn hóa lớn nhất thế giới) vẫn tiếp tục đóng băng sau sự sụp đổ của Evergrande gần 2 năm trước.

  • Khoảng 2/3 trong số 50 công ty xây dựng tư nhân lớn của Trung Quốc đã vỡ nợ.

  • Và 16 công ty còn lại sẽ phải đối mặt với các khoản nợ đáo hạn trị giá USD 1.5 tỷ tháng 9/2023 này (và nhiều hơn trong 1 năm tới).

  • Tệ hơn nữa, trong 3 tháng gần đây, giá nhà tại Trung Quốc lại tiếp tục giảm:

  1. Tiêu dùng đổ vỡ, nhu cầu trên thị trường giảm sút: dẫn đến tình trạng thiểu phát và giảm phát. 

  • Trong những tháng trước, tiêu dùng, sản lượng công nghiệp và đầu tư tại Trung QUốc liên tục đi xuống (từ bài viết cũ của Viet Hustler).

  • Hiện tại, bán lẻ và sản lượng công nghiệp của Trung Quốc đã tăng nhẹ trong tháng 8/2023, đây là tin vui cho nền kinh tế TQ.

    • Nhưng số liệu 1 tháng không nói lên được xu hướng lâu dài. 

  1. Ngân hàng Trung Ương Trung Quốc (PBOC) tiếp tục bơm tiền vào nền kinh tế để kích thích tăng trưởng khi, đặc biệt khi nền kinh tế có chút dấu hiệu phục hồi:

  • Tháng trước, PBOC đã cắt giảm lãi suất cho vay các khoản nợ trung hạn (MLF) -15bps đối với các tổ chức tài chính. Tháng này, PBOC tiếp tục giữ nguyên mức lãi suất MLF thấp (2.5%) cho các tổ chức này. 

  • Ngoài ra, tuần quan, PBOC cũng cung cấp thêm +191 tỷ CNY (~+ 26.3 tỷ USD) vào hệ thống tài chính thông qua các khoản vay MLF 1 năm, thêm +34 tỷ CNY thông qua các khoản vay 14 ngày trên thị trường tiền tệ (money market).

    Image
  • Đồng thời PBOC cũng tuyên bố hạ mức vốn dự trữ yêu cầu của các ngân hàng thương mại: giải phóng  thêm khoảng +500 tỷ CNY vốn vào thị trường nếu các ngân hàng rút tiền ra khỏi tài sản dự trữ tại PBOC. 

  1. Thị trường lao động xấu đi:

  • Tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm người trẻ tuổi tăng cao đột biến trong tháng 8: lên 21.3% (cứ 5 người trẻ tuổi sẽ có 1 người thất nghiệp).

    • Hoang mang trong dư luận về tỷ lệ thất nghiệp khiến chính phủ Trung Quốc ngừng công bố số liệu này kể từ tháng 8/2023. 

    Image
  • Trong nhiều thập kỷ, mức lương ở các thành phố lớn nhất Trung Quốc không ngừng tăng. Nhưng hiện tại, mức lương tuyển dụng ở Thưởng Hải đã giảm -9%, tại Bắc Kinh giảm -6% yoy trong quý II/2023.

    • Nhân viên chính phủ, tài chính và ngành công nghệ là những đối tượng bị cắt giảm lương đầu tiên.

    • Rủi ro của việc mức lương giảm là việc người lao động sẽ phải cắt giảm chi tiêu, bất lợi cho những cố gắng của Bắc Kinh trong việc khôi phục nền kinh tế thông qua kích thích tiêu dùng.

  1. Giá trị đồng Nhân dân tệ Trung Quốc gần chạm mức thấp nhất trong vòng 14 năm vào cuối tháng 8, do ảnh hưởng của chính sách cắt giảm lãi suất từ ngân hàng Trung Ương Trung Quốc (PBOC).

    Image
  • Hai tuần trước, Trung Quốc đã tăng cường bảo vệ đồng CNY thông qua lời cảnh báo trực tiếp với các nhà đầu cơ + đưa ra tỷ giá đồng CNY-USD tham chiếu hàng ngày cao hơn so với thị trường.

    • Điều này đã giúp đồng CNY thoát khỏi mức thấp kỷ lục trước đó.

  1. Nợ công của các chính phủ địa phương tăng mạnh:

Trên phương diện thương mại quốc tế:

  • EU đang thúc đẩy điều tra các khoản trợ cấp của Trung Quốc dành cho ngành xe điện (EV) do lo ngại việc tiêu thụ xe điện từ Trung Quốc tại Châu Âu sẽ bùng nổ như tại Mỹ.

    • Trước đó, tại Mỹ, số lượng tiêu thụ xe điện đã tăng đột biến: Mỹ mất 10 năm để bán 1 triệu chiếc xe điện đầu tiên, 2 năm để bán được 1 triệu xe điện nữa, nhưng chỉ 1 năm để bán được thêm 1 triệu xe điện lần thứ 3.

      Image
    • Cuộc điều tra có thể sẽ dẫn đến các mức thuế mới đối với xe điện nhập khẩu từ Trung Quốc vào Châu Âu.


Sự tương đồng giữa Trung Quốc hiện tại và Nhật Bản trong những năm 1960s-1990s

  1. Cả hai nền kinh tế đều bắt nguồn từ phong trào cải cách ruộng đất khiến cho sản lượng nông nghiệp tăng và nguồn cung lương thực dồi dào. 

  • Nhật bản: 1946-1950

  • Trung Quốc: cải cách ruộng đất từ năm 1978 đã khiến sản lượng lương thực của Trung Quốc thoát ra khỏi tình trạng đình trệ và bắt đầu tăng cao.

    Image
  1. Khi người dân không còn lo về cơm ăn, 2 quốc gia này đều nhận ra hướng đi tiếp theo của mình:  thúc đẩy sản xuất bằng cách

  • Nâng cao cơ sở hạ tầng và máy móc

  • Nhập khẩu công nghệ, điều mà cần đến ngoại tệ mạnh, a.k.a. USD

Để làm được điều này (có được ngoại tệ), cả 2 quốc gia đều thực hiện chiến lược thúc đẩy xuất khẩu bằng cách:

  • Giữ cho tỷ giá đồng tiền nội địa của mình thấp (thậm chí là undervalued): hạn chế nhập khẩu và kích thích tiêu dùng hàng nội địa + tăng cường xuất khẩu thu ngoại tệ.

  •  Giữ chi phí lao động ở mức thấp (trong những giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển kinh tế ở cả 2 quốc gia).

    • …điều này tuy hạn chế các cơ hội đầu tư của nhân công lao động nhưng góp phần vào việc thu hút vốn FDI, a.k.a. USD, và chuyển giao công nghệ.

  1. Tận dụng việc nhà nước kiểm soát các ngân hàng (trong trường hợp của Nhật Bản là bộ tài chính Nhật) thời kỳ đó để hướng nguồn vốn tài trợ cho xây dựng cơ sở hạ tầng và nâng cao năng suất lao động:

Những chính sách trên thực sự có hiệu quả!

  • Nhật Bản đạt được một thời kỳ tăng trưởng kinh tế vượt bậc (economic miracle):  1960-70s.

  • Trung Quốc bước vào thời kỳ tăng trưởng nóng 1992-2011:

    • Xuất khẩu đã bùng nổ. Sản lượng công nghiệp tăng trưởng hai con số:

    • Người dân làm việc chăm chỉ để xây dựng tương lai.

    • Dự trữ đồng USD của Trung Quốc tăng cao:

    • Mức lương dần tăng theo kịp với tăng trưởng kinh tế:

    • Cuối cùng: cơ sở hạ tầng hiện đại bậc nhất thế giới. 

Lỗ hổng trong chính sách của Nhật trong những năm đầu 1980s và Trung Quốc những năm 2010s là khi họ phải xây dựng nguồn dự trữ đồng USD lớn để tài trợ cho việc nhập khẩu công nghệ và đầu tư cơ sở hạ tầng. 

  • Vì vậy, để tránh việc tăng giá trị đồng nội địa, họ phải bơm một lượng JPY hay CNY vào thị trường.

  • Nhưng việc tăng cung tiền sẽ kéo theo lạm phát, điều mà Nhật những năm 1980s và Trung Quốc những năm 2010s đều muốn tránh.

    => Do vậy, họ buộc người lao động tiết kiệm + giảm chi tiêu, trong khi khóa những khoản đầu tư của người lao động ở mức lãi suất thấp.  

  • Điều này dần khiến cho GDP tăng trưởng dần chậm lại (do tiêu dùng bị kìm hãm).

    Image
  • Nhưng bù lại, hai quốc gia này đạt được những công nghệ mới nhất với cơ sở hạ tầng tiến bộ vượt bậc. Tất cả các thành phố lớn của Nhật và Trung Quốc đều được siêu kết nối.

Lúc này Nhật và Trung Quốc có thể làm gì? => Tiếp tục đầu tư! 

  • Họ tài trợ cho các công ty xuất khẩu và các nhà phát triển cơ sở hạ tầng. Cung cấp những khoản vay có chi phí lãi suất thấp.

  • Nhưng lúc này, tăng trưởng năng suất lao động đã bắt đầu chững lại.

    => Thay vì tiền được mang đi đầu tư vào nhà máy, cơ sở hạ tầng, thì lại được đổ vào các tài sản tài chính như cổ phiếu (Nhật những năm 1980s) hay bất động sản (Trung Quốc những năm 2010s) trong thời gian ngắn:

    • Điều này khiến thị trường tài chính Tokyo trở thành thị trường tài chính lớn thứ 3 thế giới sau New York và London từ những năm 1970s.

    • Trong khi ngành xây dựng công trình chiếm 30% nền kinh tế Trung Quốc.

Điều tồi tệ hơn đã xảy ra khi đối tác nhập khẩu hàng lớn nhất của họ, nước Mỹ, tất nhiên, cũng sẽ không đứng yên.

  • Năm 1985, cuộc họp tại Plaza hotel, Mỹ đã buộc Nhật phải nâng giá đồng JPY.

    Image
  • Tương tự, năm 2018, trade-war giữa Mỹ và Trung Quốc căng thẳng khi hàng loạt tariffs thuế nhập khẩu hàng Trung Quốc vào Mỹ đã tăng cao.

    Image
  1. Và mọi thứ bắt đầu sụp đổ khi các bong bóng tài sản vỡ tan:

  • Vào năm 1990, thị trường chứng khoán Tokyo sụp đổ.

    Image
  • Vào năm 2021, nhà phát triển bất động sản lớn nhất thế giới của Trung Quốc Evergrande, đệ đơn phá sản.

    • Hệ thống ngân hàng dần nhận ra là các tài sản cầm cố cho những khoản vay của họ đều được thế chấp bằng bất động sản - mà hiện nay giá trị chỉ còn một nửa. => Khủng hoảng ngân hàng!

    Image
  • Người dân nhận ra các khoản đầu tư hưu trí vào cổ phiếu hay bất động sản của họ có nguy cơ biến mất…

    • trong khi chính sách 1 con tại Trung Quốc và phong trào không kết hôn sinh con tại Nhật khiến họ không có đảm bảo khi về già. 

    => Người dân bắt đầu thắt lưng buộc bụng: tiêu dùng sụt giảm, dẫn đến tình trạng thiểu phát, giảm phát hiện nay.

  1. Giai đoạn đầu khủng hoảng, 2 ngân hàng Trung Ương (BoJ và PBOC) đều khá lạc quan khi:

  • … họ vẫn nắm trong tay các ngân hàng, và tự do điều tiết vốn

  • … có dự trữ USD dồi dào,

  • … và nền kinh tế của họ vẫn đang là nước xuất khẩu số 1 thế giới. 

Nhưng vấn đề là:

  • Khi tiêu dùng sụt giảm, dù ngân hàng có muốn cho vay thì doanh nghiệp cũng không có nhu cầu vay mở rộng sản xuất.

  • Các ngân hàng trung ương cũng không thể tiêu đi đồng USD dự trữ quá nhiều, nếu không, tỷ giá đồng nội tệ tăng sẽ gây bất lợi cho ngành xuất khẩu của họ. 

  • Đặc biệt, trong những giai đoạn khi nền kinh tế thế giới cũng đang nguội lại thì khách hàng nhập khẩu hàng hóa của họ cũng giảm thiểu nhu cầu.

Sau đó, mức lương người lao động ngừng tăng… 

Cuối cùng, Nhật Bản đã rơi vào bế tắc trong suốt 20 năm: mức lương người lao động ngừng tăng, nhu cầu tiêu dùng thấp. Nền kinh tế có tài sản tích lũy nên vẫn duy trì là nền kinh tế thịnh vượng, nhưng không còn tăng trưởng, mà hứng chịu cả thập kỷ nền kinh tế đình trệ - the lost decades. 

Liệu đây có phải là tình trạng của Trung Quốc trong 10 năm tới? 

Chính sách kinh tế của Trung Quốc có thể ảnh hưởng gì đến nền kinh tế thế giới?

  • Sự mismatch giữa tình trạng thiểu phát tại Trung Quốc (tiêu dùng sụt giảm) và tình trạng lạm phát tại Mỹ/Châu Âu (tiêu dùng vẫn đang tăng trưởng nóng) sẽ khiến nguồn vốn từ Trung Quốc đổ qua các thị trường có nhu cầu cao hơn.

    • Tại Mỹ, CPI đã tiếp tục tăng lên trong tháng 8/2023 do nhu cầu tiêu dùng dịp hè vẫn còn quá cao.

      Bài viết về CPI tháng 8/2023 của Viet Hustler.

    • Trong khi lạm phát tại Châu Âu vẫn mắc kẹt ở mức cao.

      Bài viết về Châu Âu.

    • Do vậy, khi nhu cầu nội địa Trung Quốc đang dần nguội lạnh, các nhà đầu tư Trung Quốc (hiện đã tích lũy được khá nhiều tiền) sẽ tìm cách đầu tư FDI sang các thị trường nhu cầu cao hơn.

  • Cùng lúc đó, khi PBOC tiếp tục hạ lãi suất, kích thích tiêu dùng, thì càng thúc đẩy nguồn vốn từ Trung Quốc đi sang các quốc gia đang có lợi tức đầu tư cao hơn, không chỉ là Mỹ, mà còn có cả các nước đang phát triển và các nước công nghiệp mới…

    • Điều này cũng tương tự như cách các nhà đầu tư Nhật đầu tư ồ ạt sang Mỹ, Châu Âu (đặc biệt là Anh, Đức và Pháp…) từ những năm 2000s.

  • Đối với thương mại quốc tế: việc PBOC đang thực hiện chính sách tiền tệ thả lỏng trong khi Fed và ECB đang thắt chặt tỷ giá sẽ khiến cho giá trị đồng CNY giảm trên tất cả các thị trường. 

    • Tỷ giá đồng CNY đang tiếp tục xuống thấp sẽ có lợi cho xuất khẩu của Trung Quốc. 

    • Nhưng điều này sẽ chẳng có nghĩa lý gì nếu nhu cầu tiêu dùng trên thị trường quốc tế có khả năng sụt giảm nếu cơn bão suy thoái kéo đến sau chu kỳ tăng lãi suất của các nước phương tây.

    • Bên cạnh đó, Châu Âu và Mỹ cũng tiến hành hàng loạt các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa từ Trung Quốc: đặc biệt là xe điện - mặt hàng tăng trưởng nóng tại Trung Quốc ở hiện tại.

    • Đây là lý do khiến PBOC chọn cách bảo vệ đồng CNY lúc này.

KẾT LUẬN

Mối quan tâm chính đối với Trung Quốc hiện nay là nền kinh tế đang dần nguội lạnh do tiêu dùng sụt giảm. Đây có thể là hậu quả kéo theo của series những sự kiện kinh tế khiến người tiêu dùng mất niềm tin (hay còn mất cả tiền tiết kiệm): cuộc khủng hoảng bong bóng bất động sản, liên đới đến khủng hoảng ngân hàng, và thời gian dài bức bách trong chính sách zero covid. 

Từ việc tăng trưởng kinh tế bùng nổ giai đoạn trước, cho đến sự phát triển vượt bậc của công nghệ và cơ sở hạ tầng, rồi thoái trào sau sự sụp đổ của bong bóng tài sản tài chính, cho đến tình trạng thiểu phát đi kèm với mức lương người lao động trì trệ, liệu Trung Quốc có thể là một nước Nhật thứ 2.

Điều duy nhất khác biệt giữa Trung Quốc và Nhật Bản có thể chính là quy mô dân số: đối với một đất nước dân số lớn như Trung Quốc, có thể nhu cầu tiêu dùng sẽ không mãi duy trì ở mức thấp như hiện tại. Nhưng đất nước tỷ dân này sẽ phải đối mặt với nguy cơ đi kèm đó là thất nghiệp và sự cạnh tranh nghề nghiệp giữa những người trẻ tuổi. Liệu tiêu dùng có thể tăng trưởng bền vững nếu mức lương người lao động ngừng tăng trưởng, đi kèm với tỷ lệ thất nghiệp cao trong nhóm người trẻ tuổi hay không?

Cuối cùng, nối gót nước Nhật, có thể dòng vốn chảy ra từ Trung Quốc đến thị trường thế giới sẽ gia tăng trong bối cảnh PBOC thả lỏng tiền tệ trước chính sách thắt chặt tiền tệ từ phương tây.

Tuy nhiên, với bối cảnh các nước phương tây dè chừng Trung Quốc trên chiến trường thương mại quốc tế bằng những biện pháp bảo hộ mậu dịch, Trung Quốc sẽ có hạn chế trong xuất khẩu đối với các thị trường này. Điều này sẽ tạo áp lực lớn hơn lên nền kinh tế Trung Quốc. Có khả năng, hàng hóa và nguồn vốn của Trung Quốc sẽ đẩy mạnh sang các thị trường khác. Hiện tại, ASEAN đã thay thế Mỹ và Châu Âu trở thành đối tác xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc hiện nay.

Image

Viet Hustler is a reader-supported publication. To receive new posts and support my work, consider becoming a free or paid subscriber.

Đăng nhập để đọc toàn bộ bài viết

Tạo tài khoản để truy cập nội dung premium.

0

Bình luận (1)

NS
Nguyen Son8/18/2024

Bài rất hay, đưa ra góc nhìn tổng quát với số liệu đầy đủ. Rất mang tính học hỏi.

❤ 2