Central Bank Swap Lines (CBSL) hoặc Central Bank Liquidity Lines (Cơ chế hoán đổi tiền tệ giữa các Ngân hàng Trung Ương) là một công cụ được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đề xuất và thiết lập cùng các Ngân hàng Trung Ương khác, để ngăn chặn nguy cơ lây lan (contagion) của các đợt khủng hoảng thanh khoản từ một nền kinh tế lớn lan sang Mỹ hay toàn cầu.
CBSL không phải là một công cụ mới. Fed đã từng sử dụng công cụ này (hoặc tương tự) nhiều lần trong các cuộc khủng hoảng tài chính có tác động lên toàn cầu. Ví dụ như trước khi Hệ thống Bretton Woods sụp đổ, khủng hoảng sau vụ đánh bom 09/11, Khủng hoảng tài chính 2008 và các đợt Khủng hoảng nợ công tại Châu Mỹ Latin hay Châu Âu...
Và gần đây, vào năm ngoái, CBSL đã lại được sử dụng bởi Fed với 5 Ngân hàng Trung Ương lớn, trong đợt khủng hoảng sau sự sụp đổ của SVB.
Trong thời điểm các ngân hàng lớn đối mặt với Khủng hoảng từ nợ BĐS thương mại hiện nay, có khả năng, Fed và các Ngân hàng Trung Ương lớn sẽ cần sử dụng công cụ này một lần nữa (nếu cần thiết).
FYI: mới 3 ngày trước, Fed cũng vừa thực hiện Liquidity Swap với ECB, (có thể do căng thẳng của các ngân hàng tại Đức đang leo thang do rủi ro đầu tư vào BĐS thương mại tại Mỹ).
Vì vậy, Viet Hustler sẽ cung cấp cho độc giả những hiểu biết cơ bản về cơ chế Hoán đổi tiền tệ giữa các Ngân hàng Trung Ương qua chuyên mục Kiến Thức Thị Trường tuần này.
Hoán đổi tiền tệ và cơ chế hoán đổi tiền tệ giữa các Ngân hàng Trung Ương là gì?
Hoán đổi tiền tệ là gì?
Hoán đổi tiền tệ (Currency Swap) là giao dịch mà người đi vay có thể vay bằng một đồng tiền, với tài sản thế chấp là một đồng tiền khác.
Đối với ví dụ đơn giản bên dưới:
Công ty A (tại Úc) chỉ có thể phát hành nợ trái phiếu bằng đồng USD, nhưng công ty này lại cần AUD (Australia Dollar) để hoạt động tại Úc.
A không muốn đổi USD lấy AUD trực tiếp: có thể vì tỷ giá hiện tại không phù hợp hoặc lo sợ tỷ giá sau này sẽ thay đổi bất ngờ khi đổi lại USD để trả nợ trái phiếu khi đáo hạn.
A sẽ vay B (thường là ngân hàng - Banks) bằng đồng AUD và đưa B một khoản tiền thế chấp bằng USD tương ứng (có thể sử dụng tỷ giá hối đoái hiện tại).
Sau một khoảng thời gian được thỏa thuận, A sẽ quay lại trả B cả gốc + một mức phí hoán đổi bằng đồng AUD để nhận lại số tiền USD đã thế chấp.
Như vậy, ngân hàng B sẽ không gặp bất kỳ rủi ro tỷ giá nào.
Trong khi, A cũng tránh được phần lớn rủi ro tỷ giá khi họ dùng chính đồng USD nhận lại từ B để trả nợ trái phiếu (tất nhiên họ vẫn cần đổi một ít USD để trả phần lợi tức trái phiếu).
FYI: Mở rộng hơn nữa, cơ chế này có thể được thực hiện giữa nhiều bên và nhiều loại tiền tệ; và có thể đi kèm hoán đổi cả lãi suất lẫn tiền tệ phức tạp (cross-currency interest rate swap - hình bên dưới).
Do vậy, ở mức độ cá nhân hay doanh nghiệp, currency swap chỉ được sử dụng khi biến động tỷ giá là vô cùng lớn (khác với góc độ từ các ngân hàng Trung Ương như phân tích bên dưới).
Bên cạnh đó, hoán đổi tiền tệ khá giống với một hợp đồng repos (repurchasing contract) đối với mặt hàng là tiền tệ.
Ví dụ: hợp đồng tạm thời bán EUR lấy USD và hứa sẽ mua lại EUR bằng USD (với một giá thỏa thuận nhất định).
Cơ chế Hoán đổi tiền tệ giữa các Ngân hàng Trung Ương
Đường dây hoán đổi tiền tệ giữa các Ngân hàng Trung Ương (Central Bank Swap Lines hoặc Central bank liquidity lines) là giao dịch Hoán đổi tiền tệ (như nguyên tắc phía trên) giữa 2 Ngân hàng Trung Ương (NHTW).
Điều này đặc biệt quan trọng với các NHTW trong thời kỳ khủng hoảng do:
Central Bank Swap Lines cho phép một NHTW có được thanh khoản ngoại tệ mà không cần thông qua thị trường ngoại hối và ảnh hưởng tới giá trị đồng nội tệ của họ (và thay đổi tỷ giá ngoại hối).
Bởi lẽ nếu họ trực tiếp mua ngoại tệ bằng đồng tiền nội tệ của mình với số lượng lớn thì đồng tiền của họ sẽ ngay lập tức bị mất giá!
Một vài thông tin khác:
Hệ thống Central Bank Liquidity Lines lớn nhất hiện nay (Swap Line Network) đang được thực hiện giữa 6 NHTW lớn: Federal Reserve (Mỹ), ECB (Eurozone), Bank of England (UK), Bank of Canada, Bank of Japan và Swiss National Bank.
Tuy nhiên, trong đại dịch COVID-19, Fed cũng đã thực hiện các giao dịch hoán đổi tiền tệ với 9 quốc gia khác; những dòng hoán đổi đó đã kết thúc vào tháng 12/2021.
Phần lớn đồng tiền cho vay là USD. Nguyên nhân bởi vai trò quan trọng bậc nhất của USD trong thanh toán thương mại, dự trữ và thị trường vốn toàn cầu — sẽ phân tích bên dưới.
Do vậy, Fed thường là chủ nợ để cho vay USD - đặc biệt trong các đợt Khủng hoảng thanh khoản toàn cầu.
Tuy nhiên cũng có các trường hợp khác, như ECB cũng cho BOE vay đồng EUR và USD năm ngoái, hoặc cho các Ngân hàng Trung Ương trong Châu Âu vay EUR hoặc Swiss Francs.
Vai trò quan trọng của cơ chế hoán đổi tiền tệ / thanh khoản giữa các Ngân hàng Trung Ương
Nhu cầu về hoán đổi tiền tệ trong điều kiện thông thường
Nhu cầu về ngoại tệ đối với 5 đồng tiền chính kể trên là rất lớn. Bởi lẽ, không phải quốc gia nào cũng có thể vay nợ bằng chính đồng tiền nội tệ của mình (vấn đề Original Sin).
FYI: Tính đến năm 2020, 5 loại tiền chính được dùng để vay nợ trên thị trường quốc tế vẫn là: USD, EUR, GBP, JPY và CHF (Eren and Malamud, 2022).
Đến 97% nợ trên thị trường quốc tế được phát hành bởi 5 đồng tiền này (Hausmann and Panizza, 2003).
Đặc biêt là đối với USD, khi đồng tiền này vẫn đóng vai trò chủ đạo bậc nhất trong: dự trữ ngoại hối, đồng tiền thanh toán thương mại quốc tế và đồng tiền niêm yết cho các khoản vay nợ / trái phiếu.
Bài viết liên quan: "In God We Trust" - niềm tin vào vị thế của đồng USD
Vai trò của Cơ chế hoán đổi thanh khoản giữa các NHTW trong thời kỳ khủng hoảng
Những phân tích bên dưới sẽ được đứng trên góc độ từ Mỹ và Federal Reserve do vị thế lớn của đồng USD như phân tích kể trên.
Trong các thời kỳ khủng hoảng thanh khoản, vai trò của đồng USD vốn rất lớn nay lại càng lớn hơn đối với hầu hết các quốc gia khác:
(FYI: tương tự, vai trò đồng EUR trong Châu Âu - kể cả ngoài Eurozone cũng là rất lớn).
Vì sao? Vì khi khủng hoảng xảy ra, điều đầu tiên doanh nghiệp làm để tránh phá sản là là đi huy động vốn!
Nhưng các doanh nghiệp hầu hết chỉ có thể huy động vốn qua trái phiếu được niêm yết bằng các đồng tiền lớn phía trên - đặc biệt là USD.
Đối với các ngân hàng thương mại:
Khi hủng hoảng thanh khoản xảy ra, các ngân hàng thương mại cũng cần trả nợ hàng loạt các trái phiếu và các khoản vay được niêm yết bằng USD.
Hệ thống ngân hàng thương mại cũng phải thực hiện hàng loạt các giao dịch đầu tư vào cổ phiếu / trái phiếu trên thị trường tài chính quốc tế bằng đồng USD…
Doanh nghiệp cần thanh toán hàng hóa trong thương mại quốc tế cũng bằng đồng USD - và họ cũng phải đi vay ngân hàng thương mại => nhu cầu đồng USD đối với ngân hàng thương mại lại càng cao.
Trong thường hợp này, Fed bắt buộc phải thực hiện Liquidity Swap với các ngân hàng Trung Ương bởi lẽ:
Khi nhu cầu USD cao như vậy sẽ đẩy giá trị đồng USD lên quá cao kéo theo hàng loạt những vấn đề lớn:
Đối với Thị trường vốn và doanh nghiệp: chi phí vay nợ bằng USD cao khiến doanh nghiệp/ngân hàng ngừng vay nợ => không huy động được vốn => phá sản!
Đối với Mỹ và đồng USD: thị trường nợ bằng đồng USD tăng cao trong ngắn hạn nhưng cũng có thể đột nhiên đóng băng nếu doanh nghiệp ngừng vay nợ USD (do chi phí từ tỷ giá quá cao).
=> gây ra một đợt squeeze mạnh với giá trị đồng USD (tăng quá cao rồi giảm đột ngột).
Còn đối với Fed: nếu không thực hiện Liquidity Swap, vấn đề sẽ không chỉ là tỷ giá đồng USD mà còn là thị trường Trái phiếu Kho Bạc khổng lồ
Nhu cầu USD quá cao sẽ khiến các ngân hàng thương mại nước sở tại bán ra Trái phiếu Kho Bạc Mỹ
→ thị trường trái phiếu khổng lồ này sẽ thừa cung, thiếu cầu
—> Lợi tức trái phiếu Kho Bạc (chi phí vay vốn của chính phủ Mỹ) tăng cao!
Ví dụ:
Sau sự sụp đổ của Lehman Brothers vào tháng 9/2008, thị trường vốn đã cạn kiệt vì tâm lý cực kỳ ác cảm với rủi ro, nên hoạt động đầu tư từ Mỹ ra nước ngoài (bằng đồng USD) giảm mạnh.
Các ngân hàng khu vực Eurozone khi đó đã gặp khó khăn trong việc huy động USD để tài trợ các hoạt động cần USD của họ.
Để ngăn chặn các ngân hàng này bán ra số lượng lớn T-bond đột ngột và gây ra biến động giá cực đoan, ECB và Fed phải thực hiện lượng lớn Liquidity Swap để ECB/Eurosystem có thể cung cấp USD cho các ngân hàng nằm trong khu vực Eurozone.
Vậy tại sao Fed phải hoán đổi tiền tệ với các NHTW mà không trực tiếp thực hiện với các ngân hàng thương mại nước ngoài?
Có 2 lý do chính:
Lợi thế tập trung (consolidation)
Trong thời điểm thị trường căng thằng, hàng vạn ngân hàng trên thế giới sẽ có nhu cầu vay USD.
Fed sẽ không thể làm việc với tất cả các ngân hàng này được, vì vậy, họ chỉ cần tập trung làm việc với các NHTW.
Lo ngại về rủi ro:
Nếu cho vay riêng lẻ, Fed sẽ phải thực hiện nghiên cứu thị trường và rủi ro tín dụng của từng ngân hàng mà họ cho vay.
FYI: Ngay cả ở Mỹ, Fed cũng chỉ cho vay thông qua Cửa sổ chiết khấu đối với các ngân hàng mà họ biết rõ.
Tuy nhiên, các NHTW tại nước sở tại sẽ hiểu rõ từng ngân hàng của họ vì vai trò của NHTW là giám sát và điều tiết hệ thống ngân hàng nội địa của mình.
Fed sẽ không cần lo lắng về rủi ro tín dụng của đối tác của mình (no counter-party risk).
Đường dây hoán đổi đô la Mỹ đã cứu nền kinh tế thế giới như thế nào?
Căng thẳng trên thị trường nợ vào tháng 3/2020 - khi thế giới gần như lockdown toàn bộ, nếu không được kiểm soát, đã có thể dẫn đến một loạt các vụ phá sản và hỗn loạn kinh tế.
Tuy nhiên, Fed đã kích hoạt lại đường dây hoán đổi tiền tệ được thiết lập với các ngân hàng trung ương khác trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009.
BoE đã hoán đổi số lượng GBP không giới hạn để đổi lấy USD và EUR, cho phép BoE cung cấp số lượng USD theo yêu cầu của hệ thống ngân hàng
Các ngân hàng thương mại Anh có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về USD từ các khách hàng doanh nghiệp
→ không vỡ nợ trong các khoản thanh toán bằng USD
→ tránh được tình trạng phá sản hàng loạt của các chủ nợ trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
Trong khi đó, yêu cầu của Thổ Nhĩ Kỳ về việc cấp hạn mức hoán đổi USD đã bị Fed từ chối với lý do NHTW nước này không đủ độc lập với chính phủ.
Kết quả là ngân hàng thương mại tại Thổ Nhĩ Kỳ đã bán ra ồ ạt đồng Lira để đổi USD… khiến đồng Lira trượt giá không phanh cho đến nay.
Đồng Liras tụt giá lại khiến cho người dân tiêu dùng đồng nội tệ ngày một nhiều => lạm phát leo thang mất kiểm soát lên tới 67% hiện tại.
Vào tháng 03/2023, giữa khủng hoảng ngân hàng khu vực, Fed và 5 ngân hàng trung ương lớn trên thế giới đã công bố thỏa thuận trao đổi tiền tệ.
Động thái phản ứng nhanh chưa từng thấy của SNB cung cấp thanh khoản bằng USD cho UBS để mua lại Credit Suisse cũng nhờ vào hệ thống Liquidity Swap này.
KẾT LUẬN
Tuy chỉ được sử dụng trong những dịp đặc biệt, cơ chế hoán đổi tiền tệ /thanh khoản giữa các Ngân hàng Trung ương là một phần quan trọng trong bộ công cụ chính sách tiền tệ xuyên quốc gia trong nhiều thập kỷ.Vai trò của nó khá to lớn trong việc bình ổn tỷ giá ngoại hối nói chung và lợi tức Trái phiếu Kho Bạc Mỹ nói riêng trong tình huống khủng hoảng.
Bởi lẽ, Ngân hàng Trung ương có thể đảm bảo cung cấp đồng ngoại tệ cần thiết cho hệ thống tài chính nội địa của mình mà không cần:
mua trực tiếp ngoại tệ hoặc sử dụng ngoại tệ dựa trữ (tránh ảnh hưởng bất ngờ đến tỷ giá ngoại hối)
hay bán ra Trái phiếu Kho Bạc Mỹ - trường hợp có nhu cầu về USD (tránh làm tăng chi phí đi vay cho chính phủ Mỹ và ảnh hưởng đến thị trường trái phiếu lớn nhất thế giới này).
Cơ chế này cũng đảm bảo rằng các tổ chức tài chính trên toàn thế giới có thể cung cấp tín dụng cho các hộ gia đình và doanh nghiệp khi họ cần - và bảo vệ nền kinh tế thế giới nói chung và Mỹ nói riêng khỏi những căng thẳng tài chính leo thang đến từ vấn đề thanh khoản.











Bình luận (6)
Ngay cả ở Mỹ, Fed cũng chỉ cho vay thông qua Cửa sổ chiết khấu đối với các ngân hàng mà họ biết rõ. --> Viet Hustler ơi, cho mình hỏi là xem danh sách này ở đâu được ko ạ? Cảm ơn Ban biên tập luôn cung cấp nhiều thông tin hữu ích quá <3
Fyi, data ở đây bạn nhé https://www.federalreserve.gov/regreform/discount-window.htm
Haizzz đọc chậm, nhai đi nhai lại như bò ăn cỏ may ra nắm bắt được chút xíu:)
Cảm ơn bạn nhiều. Tụi mình cũng sợ viết nhiều kiến thức technical quá cũng không phù hợp nên đã lựa chọn kỹ càng hơn rồi. Chỉ sợ viết nhiều mà không có ai đọc :)
Đăng nhập để bình luận