Định nghĩa cơ bản về “kinh tế học”:
Kinh tế học là ngành nghiên cứu về cách con người đưa ra các quyết định khi đối mặt với tình trạng khan hiếm (của hàng hóa và dịch vụ).
“Economics is the study of how humans make decisions in the face of scarcity.”
“Scarcity”, sự khan hiếm, là tiền thân của kinh tế học – yếu tố quyết định quy luật cung-cầu. Đây cũng là nguyên nhân cho các hành động kinh tế: từ góc độ vi mô như chi tiêu, tiết kiệm của người dân… cho đến các quyết định vĩ mô như lãi suất, chiến tranh và cung tiền tệ!
Thứ 6 tuần qua, ứng cử viên tổng thống Mỹ, Kamala Harris đã nêu lên một khía cạnh về “sự khan hiếm”, khi bà cho rằng:
Cú shock nguồn cung do Covid là nguyên nhân gây ra lạm phát giai đoạn đầu (do khan hiếm hàng hóa) - nhưng lại đổ lỗi cho sự tham lam của doanh nghiệp khiến giá hàng hóa liên tục tăng.
Vì vậy, các đề xuất kinh tế trong chiến dịch tranh cử của Harris thực tế nằm ở 2 hướng: kiểm soát giá cả + tấn công vào đầu doanh nghiệp (mà lại thả lỏng ở đầu tiêu dùng).
Tuy nhiên, có lẽ bà đã chưa để ý về phần đầu trong định nghĩa kinh tế học, đó là “ngành nghiên cứu về cách con người đưa ra các quyết định” trước sự khan hiếm.
Và tình hình lạm phát gần đây không còn là do sự khan hiếm hàng hóa tuyệt đối…
… mà là hệ quả của các quyết định từ người tiêu dùng hiện tại, khi đối mặt với sự khan hiếm về dịch vụ từ thời điểm Covid trước kia.
Bài viết kinh tế vĩ mô tuần này của Viet Hustler xin dành để bình luận các đề xuất chính sách của Harris, với những luận điểm chính sau:
Nguồn gốc của lạm phát? Vấn đề trong các chính sách kiểm soát giá cả mà Harris đề xuất là gì?
Bài học từ lịch sử kinh tế đối với các chính sách kiểm soát giá tương tự như đề xuất của Harris.
Disclaimer: Một vài ý kiến dưới đây là ý kiến chủ quan của tác giả!
Video: Hướng Dẫn Kiếm Tiền Không Cần Vốn Bằng Apex Funded Account
Kiếm tiền từ Funded Account không còn là điều mới mẻ nhưng vẫn còn khá nhiều anh chị chưa rõ chính xác các bước làm thế nào. Trong video này Steve sẽ hướng dẫn mọi người từ A-Z cách tạo tài khoản Apex, setup account và các luật lệ trong giao dịch để có thể kiếm tiền từ Funded Account.
Recap: Các chính sách kiểm soát giá (price control) mà Kamala đề xuất
Thị trường nhà đất:
Không cho các công ty cho thuê nhà có trên 50 units tăng giá quá 6% / năm.
Không cho nhà đầu tư lớn mua nhà số lượng lớn và sau đó bán lại ở giá cao.
Tiêu dùng:
Kiểm soát giá của thực phẩm: không cho doanh nghiệp tăng biên lợi nhuận.
Phá vỡ hoặc ép sát nhập các doanh nghiệp buôn bán thực phẩm.
Y tế: Trần giá insulin ở mức $35 + giảm giá các loại thuốc và y tế
Thuế: Mở lại ưu đãi thuế cho trẻ em (Child Tax Credit), nâng mức miễn thuế lên $6,000
Chi tiết: Bài viết của Viet Hustler ngày 08/16
Bình luận ngắn từ Viet Hustler:
Các kế hoạch kinh tế của Harris đánh vào vấn đề giá cả của 3 mặt hàng cơ bản: nhà ở (nhà cho thuê), thực phẩm và y tế. Trong đó, thực phẩm là mũi nhọn!
Đề xuất tập trung vào 3 khía cạnh:
Đặt trần giá (price ceiling hoặc đặt hạn mức tăng giá hàng năm…),
Kiểm soát biên lợi nhuận của doanh nghiệp
Vừa muốn ngăn chặn consolidation (VD: với lĩnh vực nhà đất), cũng lại vừa muốn có được economies of scale (yêu cầu các cty sản xuất thực phẩm sáp nhập để có thể hạ giá thành).
Và dù ở khía cạnh nào thì đều tập trung vào kiểm soát giá và tấn công vào các doanh nghiệp hàng hóa (thực phẩm, thuốc…) bằng cách hạn chế biên lợi nhuận của họ.
… trong khi lại thả lỏng ở đầu người tiêu dùng (cung cấp tín dụng nhiều hơn cho người tiêu dùng mua nhà, mua hàng…)
Dù có một vài điểm tích cực, thì đây vẫn mang dáng dấp của một chính sách kinh tế kiểm soát giá cả thiên hướng ép buộc…
đi ngược lại với một nền kinh tế thị trường tự do của Mỹ từ trước đến nay.
Vậy vì sao Harris Kamala lại đánh vào kiểm soát giá?
Đơn giản vì chủ đề “lạm phát - inflation” và kiểm soát lạm phát vốn là điều nhức nhối của nước Mỹ trong gần 3 năm qua.
» Đây đơn thuần chỉ là một chiêu bài chính trị để lấy lòng dân chúng hơn là giải pháp kinh tế.
Nhưng chiêu bài chính trị này của Harris, dù có thể được đông đảo người dân ủng hộ, nhưng khả năng cao sẽ mang lại hậu quả khôn lường!
Và tất nhiên, có thể giới tinh hoa nước Mỹ cũng sẽ không thích điều này!
Một phần vì họ là những người điều hành doanh nghiệp.
Nhưng phần còn lại, là vì họ hiểu rõ nguyên nhân của lạm phát và cách thị trường tự do vận hành!
Phản ứng của báo chí:
Nguồn gốc của lạm phát và sai lầm trong các đề xuất chính sách từ Harris
» Nguồn gốc của lạm phát
Chiến dịch tranh cử của Harris tập trung vào việc đổ lỗi cho doanh nghiệp khi tăng giá (“price gouging”) gây ra lạm phát.
Và tất cả các biện pháp kiểm soát giá của Harris đều đánh vào doanh nghiệp!
Tuy nhiên, lạm phát là hệ quả của cân bằng cung-cầu trên thị trường: khi nhu cầu tăng lên quá cao hơn so với nguồn cung!
Doanh nghiệp không thể tăng giá nếu họ không có nhu cầu của khách hàng.
Ngược lại, chỉ khi nhu cầu khách hàng quá lớn khiến hàng hóa trở lên khan hiếm một cách tương đối:
… Doanh nghiệp mới có quyền đòi giá cao (“price maker”) và khách hàng phải chấp nhận (“price taker”).
Tức là: nguyên nhân của bất kỳ đợt lạm phát nào cũng đến từ
Sự khan hiếm hàng hóa, hoặc…
Nhu cầu đột ngột tăng cao so với bình thường… (thật ra cũng là nguyên nhân 1: khiến hàng hóa/dịch vụ khan hiếm một cách tương đối…)
… đúng như định nghĩa về kinh tế học!
Vậy nguyên nhân chi tiết của đợt lạm phát vừa qua là gì?
(1) Giai đoạn đầu: cú shock nguồn cung sau Covid khiến hàng hóa “khan hiếm”.
Chart phía dưới là số liệu từ tháng 9/2022, khi lạm phát bắt đầu leo thang:
Yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát lớn nhất khi đó đúng là từ phía đầu cung (supply-driven) – sau đó mới dần chuyển dịch sang đầu “cầu” (demand-driven).
Các cú shock nguồn cung (supply shock) khi đó gây ra lạm phát bao gồm:
Chính sách đóng cửa “zero-covid” từ Trung Quốc
Các cảng container tắc nghẽn: khiến giá vận chuyển & nhập khẩu tăng cao.
Chiến tranh Nga Ukraine: khiến một số mặt hàng trở lên khan hiếm (vd: năng lượng, bột mỳ…) - nhưng ảnh hưởng lớn hơn ở đầu Châu Âu.
Tuy vậy, những yếu tố trên chỉ ảnh hưởng đến lạm phát hàng hóa nhiều hơn dịch vụ.
Nhưng giai đoạn sau của lạm phát: dịch vụ mới là yếu tố “sticky” trong rổ lạm phát CPI / PCE!
(2) Giai đoạn sau: sự thay đổi trong nhu cầu người tiêu dùng và hệ quả của QE trước đó
Như đã nếu trên, dịch vụ mới là yếu tố khiến lạm phát cứng đầu trong rổ CPI hay PCE, bởi 2 tác nhân chính:
Tác nhân 1 - là do sự thay đổi trong thói quen tiêu dùng của người dân.
Sau hơn 1 năm lockdown, hậu Covid, người dân sẵn sàng chi tiền cho các dịch vụ bên ngoài và du lịch nhiều hơn.
Số tiền người Mỹ chi trả cho vé máy bay (một thước đo tương đối về mức độ thường xuyên đi du lịch của người Mỹ) tăng vọt hậu Covid:
Nhưng lạm phát cao, chi phí cao, Fed thắt chặt lãi suất khiến lãi suất vay tín dụng cũng tăng cao => người dân lấy tiền đâu để ăn chơi và đi du lịch?
Điều này đưa đến tác nhân thứ 2 - Họ có lượng tiền mặt dồi dào làm tấm đệm tiêu dùng!
Viet Hustler đã nhiều lần nhấn mạnh vai trò của khoản tiết kiệm dư thừa trong Covid thúc đẩy sự sẵn sàng chi tiêu của người dân.
Việc lương tăng cao sau khi nền kinh tế mở cửa hậu Covid cũng giúp người dân có “nhiều tiền tiêu” hơn:
Và nguyên nhân sâu xa hơn cho lượng tiền mặt dồi dào này thì phải kể đến:
Chính sách QE + lãi suất thấp giai đoạn trước từ Fed
Những gói kích thích kinh tế trong thời điểm Covid khi nền kinh tế rơi vào suy thoái tạm thời hồi năm 2020.
» Sai lầm trong đề xuất của Harris: Liệu có thể giải quyết một cách đơn thuần thông qua kiểm soát giá cả?
Như đã nêu trên, tình hình lạm phát hiện nay:
Tập trung ở ngành dịch vụ, và…
Nguyên nhân chủ yếu đến từ phía nhu cầu cao (chứ không còn là cú shock nguồn cung từ doanh nghiệp).
Nhưng các chính sách của Harris lại đánh vào sai chỗ:
Kiểm soát giá hàng hóa thay vì giá dịch vụ…
Tập trung tấn công đầu doanh nghiệp (phía cung) chứ không hạn chế đầu nhu cầu (phía người tiêu dùng).
Thậm chí, ngược lại, các đề xuất chính sách của bà còn đang kích thích cầu tiêu dùng nhiều hơn với các gói trợ cấp mua nhà, tín dụng trẻ em…
Việc nhận định sai về lạm phát để đề xuất chính sách kinh tế này rất nguy hiểm bởi lẽ:
Việc trợ giá cho người dân (mua nhà, hay mua thực phẩm…) chỉ càng làm họ dùng tiền tiết kiệm được từ việc trợ giá … để chi tiêu vào dịch vụ (mặt hàng mà họ đang có nhu cầu cao hơn sau Covid so với thực phẩm hay thuốc men)!
Từ đó, làm trầm trọng hóa vấn đề lạm phát dịch vụ – kéo dài tình trạng lạm phát (thậm chí còn có thể gia tăng lạm phát trở lại).
Việc tấn công các doanh nghiệp sẽ châm ngòi cho suy thoái (khi mà Mỹ đang trên bờ vực của suy thoái rồi).
Thực tế, phần lớn biên lợi nhuận cao mà Harris nhắc tới đều đến từ các doanh nghiệp lớn (S&P500):
Và nhiều trong số họ đạt được lợi nhuận cao do các tiến bộ công nghệ trong tự động hóa và AI… – hơn là từ việc nâng giá bán.
Trong khi 16% doanh nghiệp nhỏ trên khắp nước Mỹ đều đang chứng kiến việc doanh số sụt giảm trong vòng 3 tháng gần nhất.
Như vậy, liệu Harris có còn có thể đổ lỗi cho doanh nghiệp trong việc tăng giá?
Và quan trọng hơn hết, các bài học lịch sử đều chỉ ra: chính sách kiểm soát giá tương tự như đề xuất của Harris, không những không kiểm soát được lạm phát, mà còn có thể đưa nền kinh tế vào vực thẳm!
Hệ quả của các chính sách kiểm soát giá: Góc nhìn từ lịch sử
Các chính sách kiểm soát giá không hoàn toàn xấu khi được áp dụng với các mặt hàng công cộng: như nước sạch, điện, vaccine y tế…
Nhưng với các mặt hàng tiêu dùng bình dân, việc ép doanh nghiệp tư nhân bán với một mức giá trần quá thấp, có thể gây mất cân bằng cung-cầu trên thị trường…
… kéo theo đó là hệ quả khó lường!
Hệ quả 1: Một cú shock nguồn cung lớn hơn - do sự khan hiếm hàng hóa.
Chính sách kiểm soát giá cả có thể gây ra sự thiếu hụt nguồn cung (supply shortage)!
Nguyên nhân: Do phần lớn các nhà sản xuất sẽ không muốn sản xuất nếu biên lợi nhuận (profit margin) của các mặt hàng này quá thấp.
Khi đó, điều mà chính sách của Harris đang cố ngăn chặn (lạm phát do đầu cung) có thể lại sẽ trở lại…
… do việc cắt giảm nguồn cung hàng hóa đột ngột (supply shock) từ doanh nghiệp.
Case study: Nixon shock (1971-1980s)
Tháng 8/1971, thất nghiệp tại Mỹ tăng lên 6.1%, lạm phát khi đó mới là 5.8%…
Cùng với việc hủy bỏ hệ thống Bretton Woods (cho phép quy đổi USD trực tiếp với vàng), Nixon đã đưa ra một chính sách khá cực đoan:
Áp đặt lệnh đóng băng tiền lương và giá cả trong 90 ngày để chống lại lạm phát (Executive Order 11615, 1971/08/15).
Khi đó, công chúng tán thưởng chính phủ như những người dân Mỹ tán thưởng Harris hiện nay:
Họ tin chính phủ đang giải cứu họ khỏi lạm phát:
Dow Jones phiên giao dịch hôm sau đã tăng +33 pts - mức tăng trong ngày lớn chưa từng có.
Nhưng không lâu sau đó, giá cả bị kiểm soát khiến các nhà sản xuất không còn động lực bán hàng:
"Những người chăn nuôi đã ngừng vận chuyển gia súc của họ ra thị trường, những người nông dân đã giết chết gà của họ, còn người tiêu dùng thì vơ vét sạch sẽ các kệ hàng trong siêu thị"
(Mô tả của Yergin & Stanislaw trong cuốn sách The Commanding Heights: The Battle for the World Economy)
Kết quả là lạm phát chỉ được kiểm soát tạm thời cho đến khi Nixon tái đắc cử (1972) - sau đó, việc thiếu hụt nguồn cung đã khiến lạm phát tại Mỹ tăng lên mức 2 con số vào năm 1974.
Lạm phát còn tiếp tục kéo dài hơn 1 thập kỷ tiếp theo, do cộng hưởng từ sự sụp đổ của Bretton Woods, chiến tranh Vietnam, khủng hoảng dầu thô, các chính sách lãi suất tiền tệ của Fed dưới thời Burns…
Do vậy, liệu chính sách kiểm soát giá cả thực phẩm mà Harris đề xuất có ngăn chặn lạm phát, hay làm trầm trọng hơn vấn đề lạm phát sau này?
Hệ quả 2: Giết chết sự minh bạch giá cả trên thị trường hàng hóa
Việc kiểm soát giá cả sẽ ảnh hưởng đến cân bằng trên thị trường tự do (nơi giá cả phản ánh quy luật cung-cầu) là khá rõ ràng.
Tuy nhiên, sự minh bạch của thị trường - điều mà Mỹ đang làm tốt hơn các nền kinh tế khác, cũng có thể bị phá vỡ:
Việc đặt trần giá sẽ khiến giá cả bị giới hạn tại các siêu thị lớn được kiểm soát, nhưng cũng gây ra việc nhà sản xuất cắt giảm nguồn cung (như đã nói phía trên).
Khi đó, các mặt hàng nhập khẩu theo con đường tiểu ngạch tràn vào với giá rẻ để thay thế các mặt hàng nhập chính thống và sản xuất nội địa
=> Có thể hình thành lên các hình thức “chợ đen”
=> Điều này thách thức trực tiếp sự minh bạch của thị trường mua bán hàng hóa và dịch vụ tại Mỹ…
Và cũng trực tiếp làm giảm chất lượng cuộc sống của người dân.
Case study: Khủng hoảng toàn diện tại Venezuela
Tháng 4/2013, Nicolás Maduro đắc cử tổng thống Venezuela - khi đó, đây vẫn là một quốc gia dân chủ và giàu có nhờ vào trữ lượng dầu mỏ dồi dào.
Maduro đã ra đạo luật kiểm soát giá cả: yêu cầu các siêu thị của chính phủ bán thực phẩm với giá qui định - thấp hơn nhiều so với cửa hàng tư nhân.
Nhưng người dân lại chỉ được mua ở các siêu thị công 2 ngày/tuần, dựa trên số thẻ căn cước của họ.
Qui định vốn để ngăn chặn việc người dân đầu cơ hàng hóa - nhưng lại khiến các mặt hàng cơ bản trở lên khan hiếm đối với họ.
Hệ quả là: các siêu thị thường xuyên hết hàng bán khiến người dân thiết hụt hàng hóa trầm trọng.
… và giá cả ngoài thị trường tự do tăng vượt bậc – lạm phát tại Venezuela lên mức phi mã:
Sự sụp đổ kinh tế của Venezuela trở thành case-study về kinh tế tồi tệ nhất trên thế giới gần đây:
Bên cạnh các trường hợp khác như Nga (sau sự sụp đổ của Soviet Union) hay Hi Lạp (sau khủng hoảng nợ công).
Thậm chí kinh tế Venezuela còn không thể phục hồi được như Zimbabwe nơi cũng chịu thiệt hại từ luật kiểm soát giả cả tương tự (Case study của Zimbabwe).
Có ~7 triệu người đã vượt biên chạy khỏi Venezuela do kinh tế sụp đổ và sự bất ổn về chính trị dưới chế độ độc tài của Maduro.
Tất nhiên, chính sách kiểm soát giá của Harris không quá bảo thủ như trường hợp của Venezuela.
Nhưng do qui mô lớn của nền kinh tế Mỹ, hậu quả của việc áp dụng chính sách sai lầm này có thể ảnh hưởng sâu rộng hơn trường hợp của Venezuela rất nhiều!
KẾT LUẬN
Chính sách kiểm soát giá mà Harris đề xuất cho chiến dịch tranh cử tổng thống có thể được lòng dân - khi người dân Mỹ nhìn thấy lợi ích trước mắt, với giá thực phẩm y tế được ép xuống mức thấp trong ngắn hạn.
Tuy vậy, trừ một vài điểm tích cực trong chính sách tín dụng cho trẻ em, các chính sách tập trung vào kiểm soát giá của Harris lại đầy lỗ hổng dưới góc độ kinh tế:
Đầu tiên, các chính sách này tập trung ép giá hàng hóa xuống thấp, cụ thể là mặt hàng thực phẩm và y tế:
Nhưng vấn đề của lạm phát hiện nay không phải là lạm phát hàng hóa - mà là lạm phát dịch vụ.
Thứ 2, các chính sách này tấn công vào doanh nghiệp - đổ lỗi cho biên lợi nhuận của doanh nghiệp quá cao - khiến giá cả cao.
Tuy nhiên:
Mấu chốt của lạm phát hiện nay không phải là phía nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ (doanh nghiệp) - mà là phía nhu cầu:
khi nhu cầu về dịch vụ sau Covid đã tăng vượt trội!
Các doanh nghiệp lớn mới có biên lợi nhuận cao (một phần do tự động hóa)… trong khi các doanh nghiệp nhỏ đang có doanh số ở mức đáng báo động suy thoái.
Cuối cùng, các chính sách trợ cấp cho phía người tiêu dùng sẽ làm tăng thanh khoản cho người dân - điều này sẽ chỉ làm tồi tệ hơn vấn đề lạm phát hiện tại (được thúc đẩy bởi chi tiêu tiêu dùng).
Chưa kể, các khoản trợ cấp mua nhà và tín dụng cho người dân sẽ làm trầm trọng hơn vấn đề thâm hụt ngân sách công của Mỹ hiện nay.
Dưới góc độ lịch sử kinh tế, khá nhiều dẫn chứng chỉ ra rằng: việc kiểm soát giá cả sẽ chỉ làm lạm phát tăng nhanh hơn do:
(1) Cú shock cắt giảm nguồn cung từ doanh nghiệp khiến hàng hóa trở lên khan hiếm hơn.
(2) Có thể thúc đẩy sự phát triển của thị trường chợ đen - khiến giá cả càng trở lên thiếu minh bạch + phá hủy thị trường tự do minh bạch mà Mỹ vốn rất thành công!
Thực tế, các chính sách tài khóa của chính phủ không thích hợp (hoặc có nhiều hạn chế) để kiểm soát lạm phát cao. Thay vào đó, hãy để Fed làm việc của họ trong giai đoạn này!
Video: Hướng Dẫn Kiếm Tiền Không Cần Vốn Bằng Apex Funded Account
Kiếm tiền từ Funded Account không còn là điều mới mẻ nhưng vẫn còn khá nhiều anh chị chưa rõ chính xác các bước làm thế nào. Trong video này Steve sẽ hướng dẫn mọi người từ A-Z cách tạo tài khoản Apex, setup account và các luật lệ trong giao dịch để có thể kiếm tiền từ Funded Account.














Bình luận (2)
Bài viết phân tích hay dễ hiểu. Cảm ơn tác giả
Quá bổ ích. Thank admin!!!. Nice working week Ad!!!
Đăng nhập để bình luận