Vấn đề năng lượng càng ngày càng trở lên quan trọng trong sự phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia, đặc biệt khi nguồn cung năng lượng truyền thống càng ngày càng hạn chế.
Năm vừa qua, Mỹ lại vươn lên thành nước xuất khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) lớn nhất thế giới, với khối lượng xuất khẩu vượt qua hai nhà cung cấp hàng đầu là Úc và Qatar. Khó có thể tin được là chỉ trong hơn một thập kỷ trước, Mỹ từng được dự báo sẽ thiếu hụt nguồn cung LNG nghiêm trọng.
Nhân sự kiện Mỹ mới thông báo tạm dừng cấp phép xuất khẩu LNG sang quốc gia không có FTA với Washington, khiến hầu hết các quốc gia Châu Âu điêu đứng,…. Viet Hustler xin kể lại câu chuyện về chặng đường chi phối thị trường LNG toàn cầu một cách thần kỳ của Mỹ trong những năm gần đây.
Tiên phong trong quy trình hóa lỏng khí tự nhiên
Mỹ không phải là quốc gia xuất khẩu LNG “mới nổi” gần đây như chúng ta tưởng… thực tế Mỹ chính là người khổng lồ tiên phong trong lĩnh vực hóa lỏng khí và thương mại hóa LNG trên tầm quốc tế từ hơn 60 năm trước.
Chuyến hàng xuất khẩu LNG đầu tiên đi từ cảng Louisiana đến Anh năm 1959: khoảng 2,000 tấn LNG đã được vận chuyển trên con tàu Methane Pioneer .
Thực tế, Mỹ là quốc gia đầu tiên hóa lỏng khí tự nhiên xuống -256F ở quy mô lớn vào năm 1918.
Việc hóa lỏng khí giúp thể tích khí tự nhiên giảm đi gần 600 lần: khiến việc vận chuyển quốc tế và tích trữ trở lên dễ dàng.
Quy trình này ban đầu nhằm chiết xuất Heli phục vụ cho Thế chiến thứ I, sử dụng trong các chiến hạm trên không (airship) chạy bằng khí đốt của Anh.
Nhu cầu LNG trong thế chiến cũng như công nghiệp tăng mạnh. Nhật Bản sớm trở thành quốc gia nhập khẩu LNG lớn nhất khi đó.
Trước khi nhập LNG của Mỹ, Nhật Bản là hòn đảo có trữ lượng khí đốt rất ít.
Tokyo Gas khi đó đã phải biến than thành khí đốt: một quá trình vô cùng tốn kém và không hiệu quả.
Năm 1946, Hiroshi Anzai (ảnh bên dưới) trở thành giám đốc của Tokyo Gas, ông đã quyết định nhập hoàn toàn LNG từ Mỹ do lợi thế giá thành.
Ngành công nghiệp xuất khẩu LNG khi đó tại Mỹ đã chớm bùng nổ: nhà máy Kenai LNG (tại Alaska) được xây dựng ban đầu với mục đích là phục vụ các đơn hàng từ Nhật.
Tuy nhiên, sau khi Kenai LNG vừa đi vào hoạt động, các nước Châu Á, Trung Đông, UAE, Qatar và Úc… lại vươn lên trở thành nhà cung cấp LNG mới với giá thành phải chăng (và chi phí vận chuyển đến Nhật thấp hơn).
Tăng trưởng xuất khẩu LNG của Mỹ chững lại từ đây….
Chưa dừng lại ở đó, nhu cầu về năng lượng tại Mỹ ngày càng tăng dẫn đến giai đoạn thâm hụt năng lượng (energy deficit) kéo dài 1.5 thập kỷ: 2000s-2014.
Từ một nước tiên phong xuất khẩu LNG, Mỹ trở thành nước nhập siêu mặt hàng này.
Thậm chí vào năm 2004, Deutsche Bank dự đoán Mỹ sẽ vượt Nhật Bản để trở thành nước nhập khẩu LNG hàng đầu thế giới vào năm 2015.
Vậy Mỹ đã dành lại vị thế là nhà cung ứng LNG lớn nhất thế giới như thế nào?
Đó chính là nhờ vào việc đẩy mạnh phát triển công nghệ khai thác: điều mà Mỹ vẫn luôn tiên phong đứng đầu!
“Cuộc cách mạng đá phiến”: vẽ lại bản đồ năng lượng cả nước Mỹ và thế giới
Trữ lượng dầu khí khổng lồ và bài toán khai thác
Bài toán về khí đá phiến:
Trữ lượng dầu đá phiến toàn thế giới là khoảng 345 tỉ thùng, trữ lượng khí đá phiến là khoảng 206,000 tỉ mét khối.
Tuy nhiên, để khai thác được lượng tài nguyên đá phiến lớn với lợi ích thương mại cao (chi phí thấp) không phải là điều dễ dàng!
FYI: Trung Quốc có trữ lượng khí đá phiến nhiều hơn gần gấp đôi Mỹ nhưng cho đến nay vẫn loay hoay với bài toán khai thác thế nào cho hiệu quả.
Để trở thành cường quốc LNG, Mỹ đã tạo ra một cuộc cách mạng công nghệ khai thác đá phiến với 2 phương pháp:
hydraulic fracturing: đập nứt đá bằng chất lỏng áp suất cao (nứt vỡ thủy lực).
horizontal drilling: khoan ngang
… để tiếp cận các lớp đá phiến mỏng nằm sâu dưới lòng đất với chi phí thấp và hiệu quả cao.
Vùng Eagle Ford trước kia chỉ khai thác được 50,000 thùng năm 2011 đã vọt lên 1.4 triệu thùng dầu thô nén (tight oil)/ngày:
Sản lượng dầu thô nén và khí nén của Texas tăng từ 1.3 triệu lên hơn 3 triệu thùng/ngày hiện nay.
Sản lượng này của riêng tiểu bang Texas đã vượt sản lượng dầu thô của Iraq - một quốc gia nổi tiếng về sản xuất dầu mỏ.
Sản lượng khí đốt tăng đột biến, Mỹ không còn phụ thuộc nguồn cung LNG từ nước ngoài
Từ năm 2007-2014, sản lượng khí đá phiến của Mỹ tăng trung bình +50% mỗi năm, tương đương mức tăng tổng thị phần khí đốt thế giới từ 5% lên 36%:
Điều này cũng giúp GDP Mỹ tăng bình quân 4% hàng năm (~ +690 tỉ USD).
Một số cảng nhập khẩu LNG tại Mỹ ngay lập tức bị “bỏ hoang”.
Cuộc cách mạng công nghệ hydraulic fracturing giúp Mỹ xuất khẩu con số kỷ lục - hơn 283 triệu m3 khí đốt/ngày ~ 1/10 sản lượng.
Fun fact: Câu chuyện chuyển mình của Cheniere
Trước kia, Cheniere được thành lập vào những năm 1990s để khai thác dầu khí, nhưng sau đó lại chuyển hướng phát triển các trạm nhập khẩu LNG vào đầu thập niên 2000s.
Charif Souki, cựu CEO của Cheniere Energy, đã từng đặt một ván cược sai làm rằng Mỹ sẽ cần nhập khẩu nhiều LNG.
Khi đó, Souki còn tích cực lùng sục khắp Gulf Coast để tìm các cảng vận chuyển LNG chính và lưu tâm đến ba nơi: trong đó có Freeport được đưa vào khởi công xây dựng
Sau cuộc cách mạng đá phiến, các nhà máy nhập khẩu LNG của Souki gần như không hoạt động.
Tuy nhiên, vì đang ở giai đoạn đầu của một chiến lược thất bại, nên Smith có thể kịp thời đảo ngược hướng đi và quyết định đặt cược vào ý tưởng rằng Mỹ có đủ khí đốt để trở thành nhà xuất khẩu LNG.
Hiện tại Cheniere Energy đã trở thành nhà xuất khẩu LNG lớn nhất của Mỹ.
Các đối tác nhập khẩu LNG quan trọng của Mỹ
1. Nhật Bản: quốc gia “đói năng lượng”, nhà nhập khẩu LNG nhiều nhất thế giới
Cách đây 13 năm, một trận động đất 9 độ richter mạnh đến mức khiến Trái đất lệch khỏi trục, đã tàn phá phía đông Nhật Bản, gây thảm hoạ hạt nhân nghiêm trọng ở tỉnh Fukushima.
Chất phóng xạ bắt đầu rò rỉ vào bầu khí quyển và Thái Bình Dương.
Ngay sau đó, Nhật Bản đã phải đóng cửa toàn bộ 54 lò phản ứng hạt nhân.
Không có các lò phản ứng, Nhật Bản phải phụ thuộc nhiều hơn vào LNG để sản xuất điện.
Năm 2012-2014, khoảng 1/3 tổng số hợp đồng LNG dài hạn của Mỹ đến từ các nhà nhập khẩu Nhật Bản.
Nhật Bản dần trở thành khách hàng chính trong các dự án từ Cove Point, Maryland đến Freeport, Texas.
Nắm bắt được cơ hội này, Cheniere và các nhà cung cấp LNG khác nhanh chóng chuyển đổi sang mô hình cung cấp LNG.
So với các nhà cung cấp truyền thống như Qatar hay Malaysia, các giao dịch LNG từ Mỹ có phần linh hoạt hơn:
LNG được bán tại cảng, cho phép người mua tự đến và mang hàng đi bất cứ đâu mong muốn → Tối ưu hóa vận chuyển theo nhu cầu thị trường.
Giá của LNG dựa trên Henry Hub, một sàn giao dịch khí tự nhiên tại Mỹ, thay vì giá dầu thô → Cơ cấu giá linh hoạt hơn.
Mức phạt khi hủy bỏ lô hàng thấp hơn.
Nhà máy LNG Sabine Pass đã vận chuyển lô hàng LNG đầu tiên vào đầu năm 2016.
2. Trung Quốc: miệt mài mua khí đốt (2014-2020)
Nhu cầu LNG của Trung Quốc tăng nhanh trong giai đoạn 2014-2020 do lo ngại tình trạng khan hiếm năng lượng.
Các hợp đồng LNG dài hạn từ người mua Trung Quốc là những thương vụ hấp dẫn vì mức giá ổn định so với thị trường giao ngay (spot market)…
… đặc biệt vào những thời điểm giá khí đốt tăng cao nhất mọi thời đại sau chiến tranh Nga-Ukraine.
PetroChina đã ký thỏa thuận với Cheniere, thỏa thuận LNG đầu tiên giữa Mỹ và Trung Quốc vào năm 2018.
Dù cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung 2018 có làm gián đoạn giao dịch một thời gian, Trung Quốc vẫn tăng nhập khẩu LNG từ Mỹ do khan hiếm nhiên liệu trong nước + giá cả tương đối cạnh tranh so với Qatar và Australia.
Hàng loạt dự án LNG tại Canada và Mozambique lúc bấy giờ bị trì hoãn, càng thúc đẩy các nhà nhập khẩu Trung Quốc tìm kiếm nguồn cung dài hạn.
3. Mỹ hạ bệ Nga trên thị trường Châu Âu
Khởi nguồn của cuộc khủng hoảng năng lượng tại Châu Âu
Đầu những năm 2021, cuộc khủng hoảng năng lượng châu Âu đã sớm bắt đầu:
giá khí đốt tự nhiên tăng vọt gấp 5 lần sau khi Tập đoàn năng lượng Nga Gazprom ngừng vận chuyển khí đốt qua Ukraine.
Giá thành tăng cao khiến lợi nhuận từ việc xuất khẩu LNG sang châu Âu nhanh chóng cao hơn so với thị trường châu Á.
Tháng 12/2021, ít nhất 10 chuyến hàng LNG từ Mỹ đang đến châu Á đã ngay lập tức chuyển hướng sang châu Âu.
Cuộc chiến tranh Nga - Ukraine chính thức nổ ra
Sau khi cuộc chiến Nga - Ukraine bắt đầu vào tháng 2/2022, cuộc khủng hoảng năng lượng vốn đang bao trùm châu Âu càng trở nên căng thẳng hơn.
Khí đốt giá rẻ từ Nga vốn từng đáp ứng khoảng 1/3 nhu cầu châu Âu , gần như cạn kiệt chỉ sau một đêm.
Trong khi các nước xuất khẩu LNG hạng nặng như Australia và Qatar không thể nhanh chóng đẩy mạnh xuất khẩu LNG sang châu Âu thì Mỹ đã ngay lập tức ký thỏa thuận nhập khẩu LNG dài hạn.
Nhập khẩu LNG của EU đã tăng khoảng 60% trong năm 2022.
Vụ nổ đường ống Nord Stream: thúc đẩy nhu cầu LNG từ Mỹ lên cao
Tháng 9/2022, các đường ống dẫn khí đốt Nord Stream 1 và 2 phát nổ không rõ nguyên nhân càng khiến dòng khí đốt qua đường ống của Nga tới châu Âu giảm mạnh.
Nord Stream là cặp đường ống dẫn khí đốt tự nhiên ngoài khơi ở châu Âu chạy từ Nga tới Đức do tập đoàn Gazprom của Nga khai thác.
Mỹ dính cáo buộc đứng sau đằng vụ nổ:
Seymour Hersh, nhà báo điều tra Mỹ, trích dẫn nguồn đáng tin cậy rằng chất nổ được Hải quân Mỹ đặt tại các đường ống vào tháng 6/2022 dưới vỏ bọc của cuộc tập trận BALTOPS 22 của NATO. Sau đó 3 tháng, chất nổ được kích nổ từ xa.
Ngay lập tức, Nhà Trắng cho biết báo cáo của Hersh là "hoàn toàn sai sự thật và hoàn toàn hư cấu".
Dù đến nay, vẫn chưa biết ai là người đứng sau vụ nổ chấn động này, nhưng chỉ trong một thời gian rất ngắn, Mỹ đã chính thức hạ bệ Nga để trở thành nhà cung cấp khí đốt hàng đầu của châu Âu.
Mỹ đã tăng tỷ trọng nhập khẩu của châu Âu từ 43% vào năm 2022 lên 47% vào năm 2023, trở thành nhà cung cấp LNG hàng đầu cho lục địa.
Sản lượng LNG xuất khẩu của Mỹ đến châu Âu tăng vọt trong năm 2023.
Điều này cũng giúp châu Âu giảm phụ thuộc vào nguồn cung Nga và tránh được tình trạng thiếu khí đốt trầm trọng vào năm 2022 và 2023.
Mỹ chính thức trở thành nước xuất khẩu LNG lớn nhất thế giới
Xuất khẩu LNG của Mỹ đã liên tục tăng lên hàng năm, và đến năm 2021 đã ngang với Australia và Qatar - hai quốc gia xuất khẩu hàng đầu.
Không dừng lại ở đó, sản lượng xuất khẩu dự kiến sẽ tăng gấp đôi trong thập kỷ này, đưa Mỹ trở thành “ông trùm” LNG…
đặc biệt khi nhu cầu khí đốt ngày càng tăng ở châu Á và châu Âu.
LNG hiện là mặt hàng xuất khẩu chủ lực mang lại nguồn thu khổng lồ cho các công ty năng lượng Mỹ: ~27 tỷ USD vào năm 2021.
Cập nhật về tình hình xuất khẩu LNG hiện tại
Mỹ trì hoãn xuất khẩu do ảnh hưởng khí hậu
Ngày 01/26 vừa qua, chính quyền Biden đột nhiên thông báo tạm dừng cấp phép xuất khẩu LNG sang quốc gia không có FTA với Washington (bao gồm cả Nhật và EU)…
…. để phân tích tác động đối với biến đổi khí hậu, kinh tế và an ninh quốc gia.
Thông báo này có thể không ảnh hưởng đến việc cung cấp LNG trong thời gian tới, nhưng sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng vào cuối thập niên 2020s, đầu thập niên 2030.
Nhật Bản bắt đầu tìm kiếm những nhà cuung cấp khác để đảm bảo nguồn cung năng lượng.
Các công ty năng lượng tại COP28 cam kết giảm lượng khí thải methan xuống gần bằng 0 vào năm 2030. Đây sẽ là chủ đề quan trọng đối với các nhà xuất khẩu LNG của Mỹ.
Rủi ro của châu Âu khi phụ thuộc vào LNG Mỹ
Mặc dù có Mỹ cam kết, các đồng minh của Mỹ, đặc biệt là ở châu Âu, vẫn lo lắng vào nguồn cung LNG từ Mỹ trong những năm tới.
Henning Gloystein, giám đốc năng lượng và biến đổi khí hậu của Eurasia Group: “Vấn đề lớn đối với Châu Âu là không còn nhiều lựa chọn nguồn cung LNG thay thế”.
Trên thực tế, LNG của Mỹ đặc biệt hấp dẫn đối với khách hàng châu Âu vì:
khoảng cách vận chuyển từ Bắc Mỹ tương đối ngắn…
các điều kiện mà các nhà cung cấp Mỹ đưa ra khá linh hoạt
Ví dụ, Mỹ thường cho phép người mua dễ dàng bán lại khí đốt, trong khi các cường quốc khí đốt khác như Qatar thường áp đặt các hạn chế.
Nhu cầu chuyển dịch khi nhập khẩu tăng vọt tại thị trường châu Á
Châu Á dự kiến sẽ tăng cường nhập khẩu LNG trong tương lai.
Trung Quốc mới đây đã giành lại vị trí quốc gia nhập khẩu LNG lớn nhất thế giới từ Nhật Bản trong năm 2023: lương LNG mua vào tăng +12.6% lên gần 71 triệu tấn.
Sản lượng nhập khẩu LNG của Nhật Bản đạt mức cao nhất kể từ tháng 1/2023 và lượng nhập khẩu của Hàn Quốc cũng cao nhất kể từ tháng 2/2021.
Rủi ro thiếu hụt năng lượng thế giới:
Theo dự báo từ Shell's LNG Outlook 2023, thế giới có thể không có đủ LNG từ năm 2030.
Điều này bắt nguồn từ sự gia tăng nhu cầu năng lượng, đặc biệt ở châu Á….
và những nỗ lực giảm thải carbon, khi các quốc gia và doanh nghiệp chuyển đổi sang nguồn năng lượng sạch hơn.
Tạm kết
Cho đến năm 2023, Mỹ đã xuất khẩu 91.2 triệu m3 LNG trên toàn cầu. Điều này đồng nghĩa với việc trong vòng chỉ hơn một thập kỷ, quốc gia này đã chuyển mình từ một nước nhập siêu sang nước xuất khẩu LNG lớn nhất thế giới - áp đảo hai đối thủ hàng đầu là Qatar hay Australia.
Không phải ngẫu nhiên mà Mỹ ra sức phát triển công nghệ khai thác LNG, bởi lẽ năng lượng sẽ trở thành mặt hàng hiếm trong tương lai khi nhu cầu nhiên liệu liên tục tăng cao. Việc các quốc gia khác có phát triển được các công nghệ khai thác đá phiến để tiến vào thị trường xuất khẩu LNG, hay không còn là dấu hỏi lớn.
Tuy nhiên, Mỹ dường như đã củng cố vững vị thế của mình tại các thị trường châu Á và châu Âu. Mặc dù vẫn còn những thách thức từ các đối thủ tiềm năng, nhưng sự ổn định của Mỹ trong ngành công nghiệp năng lượng hiện tại vẫn là một yếu tố quan trọng.
Tuy nhiên, cũng có những lo ngại từ đồng minh về các rủi ro chính trị trong tương lai, khi Mỹ hoàn toàn có thể tiếp nối Nga sử dụng năng lượng để chi phối các mục đích chính trị khác khi vị thế thống trị nguồn cung đã tăng cao.



































Bình luận (0)
Chưa có bình luận nào
Hãy là người đầu tiên bình luận
Đăng nhập để bình luận